Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

Mã đề tài 001

Có nhiều cách hiểu về doanh nghiệp vì tiếp cận doanh nghiệp ở những góc độ khác nhau. Khái niệm về doanh nghiệp cũng như bao khái niệm khác được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau.

Theo Nguyễn Thành Độ và Nguyễn Ngọc Huyền (2009), khái niệm doanh nghiệp bắt đầu từ phạm trù xí nghiệp. Đó là một đơn vị kinh tế được tổ chức một cách có kế hoạch để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm/dịch vụ. Xí nghiệp là những đơn vị kinh tế vừa phụ thuộc, vừa không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế.

Xí nghiệp là mô hình không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế với ba đặc trưng: (1) Sự kết hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra hàng hóa/dịch vụ, (2) Nguyên tắc “cân bằng tài chính” và (3) Nguyên tắc “hiệu quả”.

Xí nghiệp là tổ chức phụ thuộc vào cơ chế kinh tế khi xí nghiệp vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa và cơ chế thị trường.

Trên cơ sở đó, khái niệm về doanh nghiệp như sau: “Doanh nghiệp là một xí nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Mỗi doanh nghiệp đều là xí nghiệp nhưng không có nghĩa là xí nghiệp là doanh nghiệp” (Nguyễn Thành Độ và Nguyễn Ngọc Huyền, 2009)

Với cách tiếp cận theo nghĩa tổ chức doanh nghiệp được xem là nhóm người hoạt động cùng nhau, có chung mục đích và có các nguyên tắc quản trị nhất định, đó là các chuẩn mực điều hành tổ chức hướng đến mục tiêu đã đề ra.

Các tác giả cho rằng, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường. Hạn chế của khái niệm này là dựa trên cơ sở định nghĩa tổ chức cần điều kiện tối thiểu hai người.

Như vậy, vấn đề cốt yếu của doanh nghiệp theo nghĩa xí nghiệp hay tổ chức là nó hoạt động trong cơ chế thị trường. Trong cơ chế thị trường, giá cả sẽ là cơ sở để

doanh nghiệp Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận. Mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa doanh nghiệp và khách hàng được vận hành qua quan hệ quan hệ Cung- Cầu. Động lực lợi nhuận sẽ chỉ huy hoạt động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tự quyết định hình thức SXKD, tự chịu trách nhiệm, lãi hưởng, lỗ chịu, chấp nhận cạnh tranh là những đặc trưng của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.

M.Francois Peroux, cho rằng “Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy.

Doanh nghiệp ở đây được tiếp cận theo chức năng. Theo cách tiếp cận này, các doanh nghiệp được thành lập là để kinh doanh với mục đích tìm kiếm trên cơ sở đáp ứng lợi ích cho người tiêu dùng. Trong thực tiễn, có những doanh nghiệp thành lập không vì lợi nhuận, đó là doanh nghiệp công ích/doanh nghiệp xã hội, do nhà nước là chủ sở hữu, mục tiêu của doanh nghiệp này là vì lợi ích xã hội, đem lại lợi ích cho đại bộ phận dân cư.

Theo cách tiếp cận phát triển, “Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được.”9

Với cách tiếp cận này, doanh nghiệp sinh ra để tạo ra “của cải vật chất cho xã hội”. Doanh nghiệp sinh ra, phát triển cùng với những thành công và những thất bại, và có thể không tồn tại.

Trong thực tiễn, những hoạt động của doanh nghiệp không riêng lẻ hay mang tính cá biệt, mà các hoạt động diễn ra liên tục và chuyên nghiệp. Với cách tiếp cận này thì một đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng mang tính chuyên nghiệp, liên tục và dài hạn mới được coi là một doanh nghiệp.

Về bản chất thì khái niệm doanh nghiệp là chỉ các mô hình doanh nghiệp, trong đó công ty là một mô hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay. Ở của các quốc gia phát triển, công ty là tổ chức được thành lập với vốn góp, các thành viên chịu trách nhiệm trong giới hạn vốn góp của họ. Công ty hoạt động trên cơ sở thống nhất về quản lý

điều hành, có thể huy động vốn bằng phát hành trái phiếu và được thừa nhận tư cách pháp nhân.

Dù ở góc độ nào thì doanh nghiệp cũng là một tổ chức và mục tiêu của nó là kinh doanh để tìm kiếm lợi ích. Như vậy có thể hiểu doanh nghiệp là một công ty hoạt động với mục tiêu là kiếm lời.

Dưới góc độ pháp lý, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, có tài sản, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh10”.

Trong thực tế, các doanh nghiệp thành lập là để kinh doanh kiếm lời. Các doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế “vị lợi”.

Tuy có những cách hiểu khác nhau về doanh nghiệp, nhưng trong các cách hiểu đó có những điểm chung đó là doanh nghiệp được thành lập là để tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở thỏa mãn người tiêu dùng. Tác giả cho rằng: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập theo qui định của luật pháp với mục đích là kinh doanh trên cơ sở thỏa mãn lợi ích người tiêu dùng, qua đó tối đa hóa lợi nhuận, đồng thời thực hiện trách nhiệm với cộng đồng nơi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.

1.1.1.2.   Đặc điểm của doanh nghiệp

Các loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:

Một là, doanh nghiệp “có tính hợp pháp”. Tính hợp pháp được biểu hiện qua việc doanh nghiệp phải nộp hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp đến cơ quan chức năng để được thành lập.

Khi có giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp thì doanh nghiệp có “tư cách pháp nhân” để thực hiện các hoạt động SXKD và doanh nghiệp phải cam kết với các việc làm bằng tài sản của doanh nghiệp.

Tính hợp pháp được biểu hiện qua việc doanh nghiệp xin thành lập để xác nhận sự hiện diện của doanh nghiệp về luật pháp. Doanh nghiệp phải cam kết về nghĩa vụ tài chính, các khoản nợ khi phá sản/giải thể.

Như vậy, để có tư cách pháp nhân tham gia hoạt động SXKD thì doanh nghiệp phải đăng ký một cách hợp pháp. Thủ tục đăng ký mang tính “hai chiều”, để thành lập, doanh nghiệp phải nộp hồ sơ xin phép, nếu cơ quan có thẩm quyền chấp thuận sẽ cấp phép cho doanh nghiệp thành lập. Khi đó doanh nghiệp sẽ được pháp luật bảo vệ

những cũng chịu trách nhiệm trước pháp luật. Như vậy, giấy phép thành lập doanh nghiệp chính là giấy khai sinh của doanh nghiệp.

Hai là, doanh nghiệp hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài với định hướng tối đa hóa lợi nhuận. Các doanh nghiệp thành lập là nhằm tìm kiếm lợi ích qua việc phục vụ người tiêu dùng. Nhưng cũng có doanh nghiệp xã hội hoạt động phi lợi nhuận mà vì cộng đồng, vì xã hội, vì môi trường.

Ba là, tính tổ chức của doanh nghiệp khi hoạt động. Điều này được biểu hiện qua cơ chế điều hành, bộ máy nhân sự. Các doanh nghiệp đều có tính tổ chức, cơ cấu nhân sự, bộ máy quản trị, trụ sở giao dịch và tài sản kèm theo đó là tư cách pháp nhân/trừ doanh nghiệp tư nhân.

1.1.1.3.   Vốn của doanh nghiệp

Trong hoạt động SXKD, vốn là vấn đề rất quan trọng nên các doanh nghiệp luôn tìm cách để có đủ vốn và dùng nó hiệu quả. Ở mỗi góc độ sẽ có có cách nhìn về vốn không giống nhau. Vốn của doanh nghiệp là một “quỹ tiền tệ đặc biệt” dùng cho SXKD, nghĩa là để tích lũy chứ không phải để tiêu dùng.

Trong KTTT, “Vốn được hiểu là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu vào các quá trình tiếp theo của doanh nghiệp” (Nguyễn Đình Luận, 2016). Như vậy, vốn ngoài là yếu tố đầu vào, nó còn tham gia vào quá trình SXKD trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Theo quan điểm thống kê/ kế toán, vốn được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ, có khả năng huy động và dùng cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp để sinh lời. Vốn là tài sản được biểu hiện bằng tiền và tài sản là hình thức hiện vật của vốn ở thời điểm nhất định.

Trên góc độ yếu tố sản xuất thì K.Mark cho rằng: “Vốn chính là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất”. Và K.Mark cũng cho rằng chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra “giá trị thặng dư” cho nền kinh tế.

Paul A.Samuelson, thì cho rằng: Đất đai, lao động là các yếu tố đầu vào, còn vốn và hàng hoá vốn là thành quả của quá trình sản xuất. Vốn bao gồm những hàng hoá lâu bền được sản xuất ra và được dùng làm đầu vào cho quá trình sản xuất sau đó. Đặc điểm căn bản hàng đầu của hàng hoá vốn là vừa là đầu ra, vừa là đầu vào của quá trình sản xuất.

Để có các đầu vào cho SXKD, các doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước được gọi là vốn của doanh nghiệp. Có thể hiểu, Vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của vật tư, tài sản được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp để tạo ra hàng hóa/dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.

Đặc điểm của vốn

Thứ nhất, vốn “hàng hoá đặc biệt”, trước tiên, vốn giá trị giá trị sử dụng. Giá trị của vốn biểu hiện qua khoản phí mà doanh nghiệp đã chi ra để có nó. Giá trị sử dụng của vốn biểu hiện qua việc mua sắm tư liệu sản xuất, hàng hoá phục vụ cho SXKD.

Thứ hai: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định chứ không có đồng vốn vô chủ.

Thứ ba: Vốn phải luôn luôn vận động sinh lời.

Thứ tư: Vốn được tích tụ đến một lượng nhất định mới được đầu tư vào SXKD.

Nguồn hình thành vốn

Theo phạm vi, có nguồn vốn trong và ngoài doanh nghiệp

Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn được tập hợp từ chính hoạt động của doanh nghiệp như: Khấu hao TSCĐ, lợi nhuận, quỹ dự trữ, dự phòng, thu từ nhượng bán, thanh lý TSCĐ.

Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn được tập hợp từ bên ngoài doanh nghiệp dùng cho SXKD như: Vay các TCTD, tổ chức kinh tế, cá nhân/người lao động trong doanh nghiệp.

Nhìn nhận theo phạm vi huy động sẽ giúp các chủ doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, lựa chọn nguồn vốn cho tương lai căn cứ vào quy mô về vốn và hoạt động SXKD nhằm sử dụng hiệu quả của vốn.

Tóm lại: Vốn được thể hiện bằng tiền của những tài sản mà doanh nghiệp sử dụng vào quá trình SXKD nhằm tìm kiếm lợi ích. Vốn là một đầu vào không thể thiếu của doanh nghiệp, cấu trúc vốn của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay. Để có đủ vốn cho SXKD, các doanh nghiệp tập trung vốn từ các nguồn khác nhau như: vốn góp của các cổ đông, vốn tín dụng của các TCTD, vay người thân, bạn bè, tín dụng thương mại. Tùy theo điều kiện và loại hình mà doanh nghiệp huy động linh hoạt, sử dụng hiệu quả vốn chủ sở hữu, vốn vay để có lợi nhuận tối đa.

1.1.1.4.   Vai trò của vốn với doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu tác động của vốn, trình độ công nghệ, đội ngũ quản lý, hiệu quả sử dụng vốn…, trong đó hiệu quả sử dụng vốn được các doanh nghiệp hết sức chú trọng. Vốn là cơ sở để doanh nghiệp ra đời, để doanh nghiệp mở rộng hoạt động, cải tiến công nghệ, trang thiết bị. Khi không đủ vốn thì

 

 

hoạt động của doanh nghiệp sẽ đình trệ, phát sinh tác động tiêu cực đến doanh nghiệp cũng như người lao động. Vốn có những vai trò sau:

Về pháp lý: Một doanh nghiệp khi thành lập thì doanh nghiệp phải có một lượng vốn đảm bảo pháp lý gọi là “vốn pháp định”, khi đó xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp. Suốt tiến trình hoạt động SXKD, nếu vốn của doanh nghiệp thấp hơn quy định thì doanh nghiệp đó sẽ: phá sản/sáp nhập. Như vậy, vốn là nền tảng quan trọng đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp.

Về kinh tế: Vốn là một nhân tố quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp. Nó đảm bảo khả năng mua sắm máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ cho hoạt động SXKD tiến hành liên tục, giúp doanh nghiệp nâng cao cạnh tranh trên thị trường. Và vốn còn là điều kiện để sử dụng lao động, hàng hoá, lưu thông và tiêu thụ hàng hoá. Trong quá trình SXKD, vốn bắt đầu từ sản xuất đến lưu thông và quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Lưu chuyển của vốn giúp doanh nghiệp thực hiện sản xuất và sản xuất mở rộng.

1.1.2.   Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

1.1.2.1.   Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

Bảng 1.1. Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của Worl Bank

 

Quy mô doanh nghiệp Số lao động Tài sản Doanh thu

hàng năm

Doanh nghiệp siêu nhỏ < 10 < $100 000 < $100 000
Doanh nghiệp nhỏ < 50 < $3 triệu < $3 triệu
Doanh nghiệp vừa < 300 < $15 triệu < $15 triệu
Quy mô vay trung bình
Doanh nghiệp siêu nhỏ < $10 000
Doanh nghiệp nhỏ < $100 000
Doanh nghiệp vừa < $ 1 triệu

Nguồn: Tổng hợp từ Worl Bank (2018)

Theo quy mô, DNNVV gồm: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Song có nhiều định nghĩa, cách phân loại không giống nhau. Ranh giới xác định giữa các nhóm doanh nghiệp ở các nước là không giống nhau,

và ở mỗi nước thì mỗi thời kỳ phát triển lại phân loại doanh nghiệp với những tiêu chí riêng.

Bảng 1.2. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa theo qui mô trên thế giới

Stt Quốc gia Tiêu chí
1 Áo Ít hơn 250 lao động
2 Bỉ Ít hơn 250 lao động
3 Canada Ít hơn 500 lao động
5 Trung Quốc Phân loại theo ngành
6 Colombia Ít hơn 200 lao động
7 Séc Ít hơn 250 lao động
8 Đan Mạch Ít hơn 250 lao động
9 Estonia Ít hơn 250 lao động
10 Hungary Lao động < 250; Doanh thu < 50 triệu EUR và/hoặc tài sản dưới 43 triệu EUR
11 NaUy
22 Israel Lao động < 100; doanh thu < 100 triệu NIS
23 Nhật Bản Phân loại theo ngành
24 Hàn Quốc Phân loại theo ngành
25 Hong Kong < 100 lao động – trong sản xuất

< 50 lao động- với phi sản xuất

27 Mexico < 500 lao động- với lĩnh vực sản xuất

< 50 lao động trong dịch cụ

28 Nga Lao động < 250, doanh thu <1.000 triệu RUB
29 Thụy Sĩ < 250 lao động
 

30

 

Thái Lan

< 200 lao động (sử dụng nhiều lao động) và tài sản dưới 200 triệu THB

< 100 lao động ( sử dụng nhiều vốn)

31 Thổ Nhĩ Kỳ < 250 lao động và tài sản dưới 40 triệu TRY
32 Anh < 250 lao động
33 Mỹ <500 lao động và < 7 triệu USD

Nguồn: OECD (2015)

Phân loại của Ngân hàng thế giới dựa vào lao động, tài sản, doanh thu kết hợp với“quy mô vay trung bình” để phân loại. Các nền kinh tế khác nhau và tại những thời

kỳ phát triển kinh tế có cách phân loại doanh nghiệp cũng khác nhau. Các quốc gia thuộc khối EU, DNNVV là doanh nghiệp có số lao động < 250 người và doanh thu hàng năm < 50 “triệu Euro”. Ở Hoa Kỳ, DNNVV là doanh nghiệp có số lao động < 500 và có doanh thu hàng năm < 7 triệu USD. Tại Hong Kong, các DNNVV được phân loại dựa vào số lao động và ngành sản xuất. DNNVV sản xuất có số lao động nhỏ hơn 100, ngành phi sản xuất là dưới 50 lao động. Các ngân hàng Hong Kong phân loại doanh nghiệp dựa vào: doanh thu, mức tập trung vốn, năng lực tín dụng.

Thái Lan phân loại DNNVV chi tiết và cụ thê với các tiêu chí quan trọng được quốc gia này sử dụng là là số lượng lao động, TSCĐ và lĩnh vực hoạt động. Các doanh nghiệp nhỏ sản xuất có số lao động nhỏ hơn 50, tài sản nhỏ hơn 50 triệu bạt, các doanh nghiệp vừa thì số công nhân từ 51- 200 người và tài sản từ 50 – 200 triệu bạt; với lĩnh vực thương mại thì doanh nghiệp nhỏ có số lao động nhỏ hơn 25, tài sản < 50 triệu Bạt, doanh nghiệp vừa có số công nhân từ 26- 50 người và tài sản từ 50- 200 triệu Bạt.

Bảng 1.2 cho thấy các quốc gia xếp các doanh nghiệp có dưới 250 lao động thuộc loại DNNVV; hai quốc gia là Mỹ và Canada thì tiêu chí này là dưới 500 lao động; một số quốc gia như Mexico, Isarel tiêu chí này là dưới 100 lao động. Các nước không phân loại cụ thể như Việt Nam (doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ) họ gọi chung là các DNNVV.

Phân loại của Ngân hàng thế giới và các quốc gia cho thấy, DNNVV có quy mô vốn, lao động và doanh thu nhỏ. Ở mỗi thời kỳ kinh tế khác nhau, mỗi nước phân loại DNNVV theo tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, tiêu chỉ sử dụng phổ biến là số lao động, vốn, doanh thu, lĩnh vực kinh doanh và một số thêm tiêu chí tổng tài sản, ngành để phân loại doanh nghiệp theo qui mô.

Tại Việt Nam , phân loại doanh nghiệp căn cứ Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ và các DNNVV được chia cụ thể thành: doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ.

  • Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động đóng BHXH trung bình ≤ 10 người; doanh thu ≤ 3 tỷ VNĐ, nguồn vốn ≤ 3 tỷ VNĐ. DN siêu nhỏ làm thương mại dịch vụ có số lao động đóng BHXH trung bình ≤ 10 người; doanh thu ≤ 10 tỷ VNĐ, nguồn vốn ≤ 3 tỷ VNĐ.

Các doanh nghiệp siêu nhỏ ở những lĩnh vực khác nhau đều có tiêu chí chung là lượng lao động đóng BHXH trung bình năm ≤ 10 người; nguồn vốn ≤ 3 tỷ VNĐ. Các doanh nghiệp siêu nhỏ làm thương mại, dịch vụ thì tiêu chí về doanh thu lớn hơn các lĩnh vực khác.

  • Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp, xây dựng có lượng lao động đóng BHXH trung bình năm ≤ 100 người; doanh thu ≤ 50 tỷ VNĐ/nguồn vốn ≤ 20 tỷ VNĐ.

Doanh nghiệp nhỏ làm thương mại dịch vụ có số lao động đóng BHXH trung bình ≤ 50 người, doanh thu ≤ 100 tỷ VNĐ/nguồn vốn ≤ 50 tỷ VNĐ.

 

Bảng 1.3. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị định số 39/2018/NĐ-CP năm 2018 của Chính phủ

  1. Theo lao động và doanh thu

 

DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa
Số lao động

(Người)

Doanh thu

(TỷVNĐ)

Số lao động

(Người)

Doanh thu

(TỷVNĐ)

Số lao động

(Người)

Doanh thu

(TỷVNĐ)

Nông, lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp và xây dựng  

< 10

 

< 3

 

< 100

 

< 50

 

< 200

 

< 200

Thương mại và dịch vụ  

< 10

 

< 10

 

< 50

 

< 100

 

< 100

 

< 300

 

  1. Theo lao động và vốn

 

DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa
 

Số lao động (Người)

 

Nguồn vốn (TỷVNĐ)

Số lao

động

(Người)

 

Nguồn vốn (TỷVNĐ)

 

Số lao động (Người)

 

Nguồn vốn (TỷVNĐ)

Nông, lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp và xây dựng  

< 10

 

< 3

 

< 100

 

< 20

 

< 200

 

< 100

Thương             mại             và dịch vụ  

< 10

 

< 3

 

< 50

 

< 50

 

< 100

 

< 100

Nguồn: Tổng hợp từ Nghị định số 39/2018/NĐ-CP

Như vậy các DNNVSN được phân theo quy mô lao động tại Việt Nam khá tương đồng với các phân loại của Ngân hàng thế giới, và có sự khác biệt về doanh thu hoặc nguồn vốn là do đặc thù riêng của nền kinh tế mới nổi.

1.1.2.2.   Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có những đặc điểm riêng như sau:

  • Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có quy mô hoạt động SXKD và năng lực tài chính nhỏ

Các DNNVSN có vốn nhỏ, lao động không lớn hơn 100 người. Điều này đem lại cho DNNVSN những lợi thế nhất định như: dễ thành lập, dễ tham ra vào thị trường, có thể thu hồi vốn nhanh. Những lợi thế này khiến các DNNVSN phát triển ở nhiều ngành nghề, nhiều địa bàn, khỏa lấp những khoảng thị trường mà các doanh nghiệp khác không quan tâm/ít coi trọng.

Với lượng vốn nhỏ DNNVSN bị hạn chế rất nhiều khi tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Với quy mô nhỏ kết hợp với thiếu thông tin khiến các doanh nghiệp này khó TCVTD. Với các DNNVSN vay được vốn tín dụng của các TCTD thì không phải lúc nào cũng thỏa mãn đủ nhu cầu của doanh nghiệp vì các rào cản như: thủ tục, DAĐT/PAKD thiếu khả thi, TSBĐ chưa đáp ứng,…

  • Loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh phong phú

Các loại hình DNNVSN gồm: Hộ kinh doanh, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công TNHH, công ty cổ phần. Với quy mô nhỏ gọn các DNNVSN sử dụng nguồn lao động, nguyên vật liệu tại địa phương, dễ thích nghi với những biến động của thị trường nên phát triển nhanh, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Trong đó, các hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.

  • Chiến lược kinh doanh, trình độ khoa học công nghệ và năng lực cạnh tranh hạn chế

Đa phần các DNNVSN chưa có chiến lược kinh doanh cụ thể tương xứng với sứ mạng, định hướng của doanh nghiệp mà chỉ là các kế hoạch SXKD mang tính tạm thời, tính giải quyết tình huống với thay đổi. Vì vậy, các DNNVSN thường sai hướng với sứ mạng, mục tiêu đã đề ra.

Trong kinh tế số, đầu tư vào KHCN sẽ mang đến chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, giúp DNNVSN nâng cao năng lực cạnh tranh. Với quy mô nhỏ việc đầu tư đổi mới trang thiết bị, quy trình sản xuất của các DNNVSN là khó khăn. Hậu quả là các DNNVSN có chi phí sản xuất cao, hàng hóa/dịch vụ không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường.

  • Hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chịu tác động rất lớn của những thay đổi môi trường

Với lượng vốn nhỏ, hoạt động SXKD chủ yếu mang tính mùa vụ,chiến lược kinh doanh mang tính ngắn hạn, dẫn đến tính ổn định của các DNNVSN là không cao. Khi môi trường kinh doanh bất ổn sẽ tác động rất lớn đến các DNNVSN. Nhưng với quy mô nhỏ, các DNNVSN lại dễ chuyển hướng hoạt động SXKD, điều tiết nhân sự, chuyển đổi sản xuất hơn các doanh nghiệp lớn và đây là một lợi thế của các doanh nghiệp này.

  • Bộ máy quản trị gọn, tính linh hoạt cao và dễ thay đổi

Với nhân sự ít, cơ cấu tổ chức trong các DNNVSN tương đối gọn, điều hành trực tiếp làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; các tác nghiệp được triển khai nhanh hơn và tiết kiệm được chi phí quản lý.Các quyết định đưa ra nhanh chóng tiệm cận những biến động trong kinh doanh. Song, việc ra quyết định nhanh cũng tiềm ẩn rủi ro khi chủ DNNVSN yếu kiến thức về tài chính, pháp lý và điều hành doanh nghiệp.

1.1.2.3.   Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

DNNVSN có là lực lượng không thể không có trong kinh tế của các nước cho dù là nước phát triển hay đang phát triển. DNNVSN hoạt động trên hầu hết lĩnh vực như: Công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ, góp phần thỏa mãn nhu cầu đa dạng của thị trường. Các nền kinh tế khác nhau thì vai trò của DNNVSN cũng khác nhau. Song tựu chung, tầm ảnh hưởng của DNNVSN dần gia tăng khi mà số lượng DNNVSN ngày càng tăng và hoạt động trong hầu hết lĩnh vực. DNNVSN có các vai trò sau:

  • DNNVSN tạo việc làm cho nền kinh tế, góp phần giải quyết thất nghiệp

Các DNNVSN với nhiều ngành nghề, lĩnh vực đã tạo việc làm cho người dân ở địa phương. Với đặc điểm SXKD không yêu cầu mức độ cao nên DNNVSN thu hút nhiều lao động có tay nghề thấp, chưa được đào tạo ở các vùng nông thôn, vùng kinh tế còn kém phát triển. Khi nền kinh tế bất ổn/khủng hoảng, các doanh nghiệp lớn thường sa thải hàng loạt lao động thì các DNNVSN với khả năng thích ứng nhanh có thể đứng vững và ít phải sa thải lao động, vàcó thể tuyển dụng lại nhân công nhanh chóng khi kinh tế ổn định.

  • DNNVSN góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế

Hầu hết các DNNVSN là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. DNNVSN được ví như “thanh giảm sốc” cho nền kinh tế trong những thay đổi lớn. Với vốn đầu tư nhỏ, sẵn có nguồn lao động, các DNNVSN gia tăng nhanh chóng và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn. DNNVSN cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩm, ở nhiều lĩnh vực, giúp người mua có nhiều lựa chọn.

  • DNNVSN góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương

Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia bao giờ cũng có những khu vực chậm phát triển do bất lợi nào đó/cơ sở hạ tầng kém. Các doanh nghiệp lớn sẽ có xu hướng tập hoạt động ở các đô thị, khu công nghiệp, còn các DNNVSN thì hoạt động khắp các vùng miền. Với vốn thành lập nhỏ, cơ cấu tổ chức gọn, dễ thành lập, các DNNVSN có thể khai thác, phát huy tiềm năng của tài nguyên và lao động của mỗi vùng, đặc biệt là sản xuất Nông- Lâm- Thủy sản và công nghiệp chế biến. DNNVSN có ảnh hưởng tích cực đến sự duy trì và phát triển các nghề truyền thống. Như vậy, DNNVSN có vị thế không nhỏ trong CNH

  • HĐH nông nghiệp, góp phần giảm khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn.
Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *