1.2.1. Khái niệm về khả năng tiếp cận vốn tín dụng
Theo Hoàng Phê và cộng sự (2013) trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” thì “khả năng” nghĩa là “Cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định” hoặc được hiểu là “Cái vốn có về vật chất hoặc tinh thần để có thể làm được việc gì” (tr.488). Còn thuật ngữ “tiếp cận” có nghĩa là “Ở gần, ở liền kề” hoặc “Tiến sát gần” hoặc “Đến gần để tiếp xúc” hoặc “Từng bước, bằng những phương pháp nhất định, tìm hiểu một đối tượng nghiên cứu nào đó” (tr.987).
Thuật ngữ “khả năng tiếp cận tín dụng” được Ribot & Peluso (2003) sử dụng trong , “A Theory of Access” (Lý thuyết tiếp cận) cho rằng thuật ngữ “Access” (tiếp cận) được hiểu là “the ability to derive benefits from things” (khả năng hưởng lợi từ cái gì đó) (tr.153).
“Khả năng tiếp cận vốn là khả năng của doanh nghiệp nghiên cứu, nhận biết, nắm bắt và có thể được cung ứng vốn với các chi phí vốn thấp nhất, có thể chấp nhận được bởi cả hai phía là doanh nghiệp (người cần vốn) và người cung cấp vốn”14 (Nguyễn Thị Kim Lý, 2013). Theo tác giả, khả năng TCVTD được hiểu là khả năng của doanh nghiệp thỏa mãn các yêu cầu của người cho vay để có được vốn cho HĐKD với chi phí thấp nhất có thể.
“Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận nguồn vốn vay của các DNNVV trên địa bàn Hà Nội” thì cho rằng “Sự tiếp cận nguồn vốn vay của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng được các điều kiện vay vốn theo quy định của các tổ chức tín dụng tại mức lãi suất phù hợp và tổ chức tín dụng sẵn sàng cho vay15” (Đặng Thị Huyền Hương, 2016).
“Khả năng đi vay của khách hàng là khả năng của khách hàng để được nhận và sử dụng nguồn vốn vay từ ngân hàng” (Đặng Thị Thu Hằng, 2017).16
Các nghiên cứu đã khái quát nội dung khái niệm khả năng TCVTD ngân hàng. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, khái niệm khả năng TCVTD của DNNVSN từ QTDND được hiểu như sau: Khả năng TCVTD từ QTDND của DNNVSN là việc DNNVSN khi có nhu cầu sử dụng vốn cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp có thể vay được tiền của QTDND.
DNNVSN khi TCVTD của QTDND là các DN có nhu cầu vay vốn và chủ động tiếp xúc với QTDND để đề xuất vay vốn. Các DN này có thể được QTDND cấp vốn TD theo nhu cầu, một phần nhu cầu/bị từ chối. Khả năng TCVTD của DNNVSN được xác định là tốt nhất khi DN muốn vay được QTDND đáp ứng đủ và kịp thời.
Khả năng TCVTD của DNNVSN phụ thuộc vào sự chủ động tiếp cận các doanh nghiệp này của QTDND để cấp vốn tín dụng. Nó được biểu hiện bằng việc QTDND đáp ứng vốn tín dụng cho DNNVSN; chiến lược kinh doanh của QTDND hướng đến DNNVSN; QTDND chủ động hạ lãi suất cấp tín dụng nhằm thu hút DNNVSN. Khả năng TCVTD của DNNVSN cũng phụ thuộc vào mức độ chủ động TCVTD của doanh nghiệp. Mức độ chủ động TCVTD từ QTDND của các DNNVSN thể hiện qua tính năng động, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp; khả năng lập DAĐT/PAKD; chủ động minh bạch tài chính; chủ động xây dựng các quan hệ với chính quyền, QTDND và doanh nghiệp khác.
TCVTD của các DNNVSN cũng chịu ảnh hưởng của sự hỗ trợ DNNVSN của Chính phủ, địa phương. Khi Chính phủ và chính quyền địa phương thực thi hỗ trợ DNNVSN tốt thì khả năng TCVTD của các doanh nghiệp này sẽ tăng lên và ngược lại. Các chính sách hỗ trợ sẽ thúc đẩy DNNVSN phát triển, nâng cao hiệu quả SXKD, qua đó cải thiện năng lực tài chính, kích thích doanh nghiệp mở rộng SXKD. Đồng thời chính sách hỗ trợ DNNVSN của Chính phủ sẽ góp phần khắc phục những điểm yếu của DNNVSN, thúc đẩy tín dụng cho DNNVSN phát triển.
Để giúp DNNVSN phát triển, bên cạnh chính sách của Chính phủ thì chính quyền cơ sở cũng cần triển khai các chính sách đó nhanh chóng và kịp thời. Việc thực thi ở các địa phương lại không giống nhau vì lệ thuộc vào người lãnh đạo, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ tham mưu ở cơ sở.
1.2.2. Cơ sở lý thuyết về tiếp cận vốn tín dụng
Những nghiên cứu về khả năng TCVTD và các nhân tố tác động đến khả năng TCVTD của các DNNVV được dựa trên các lý thuyết: Lý thuyết kinh tế có điều tiết của Keynes (1936); Lý thuyết kinh tế học thể chế được khởi xướng bởi Olson (1971); Lý thuyết mạng lưới xã hội của Granovetter (1973); Lý thuyết phân bổ TD của Stiglitz & Weiss (1981).
1.2.2.1. Lý thuyết kinh tế có điều tiết (Economic regulation)
Lý thuyết kinh tế có điều tiết do Keynes (1936) trong tác phẩm “The General Theory of Employment, Interest and Money” (Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ), là lý thuyết về nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Lý thuyết này đề cao vai trò can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế thị trường thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó Keynes đặc biệt nhấn mạnh đến chính sách tài chính, tín dụng. Theo Keynes, Chính phủ nên can thiệp mạnh vào kinh tế bằng việc tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng, áp dụng những biện pháp hạ lãi suất, giảm thuế, triển khai tín dụng ưu đãi nhằm động viên các DN đầu tư.
Lý thuyết này là cơ sở để xem xét “các chính sách hỗ trợ tín dụng của chính quyền địa phương”, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế bất ổn. Các TCTD quan tâm đến các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như tình hình kinh tế vĩ mô, xu hướng biến động của các ngành, những thay đổi của các qui phạm pháp luật, những thay đổi về chính sách tiền tệ trong điều tiết nền kinh tế của Chính phủ (Nguyễn Văn Lê, 2014). Việc xác định các khoản vay phù hợp cho khách hàng (Jankowicz & Hisrich,1987). Qui định trần lãi suất của nhà nước; Chính sách khuyến khích cho vay DNNVV; Hệ thống pháp luật hỗ trợ ảnh hưởng đến các rào cản TCTC của DNNVV (Granbol,2008). Trong việc ban hành các chính sách hỗ trợ DNNVV của Chính phủ và các địa phương (Trần Quốc Hoàn, 2018; Nguyễn Thu Thủy và cộng sự, 2019).
1.3.1.2. Lý thuyết mạng lưới xã hội
Lý thuyết mạng lưới xã hội được Jankowicz, AD and Hisrich, RD. (1987), Nguyễn Thị Cành (2008), Võ Trí Thành và cộng sự (2011), Kung’s, Gabriel Kamau (2011), Khalidand Kalsom (2014), Trần Quốc Hoàn (2018), Nguyễn Thu Thủy và cộng sự (2019) sử dụng cho phân tích tác động của mối quan hệ của doanh nghiệp đến khả năng TCVTD ngân hàng.
Lý thuyết mạng lưới quan hệ xã hội của Granovetter (1973) với “The strength of Weak Ties”, cho rằng, “mạng lưới quan hệ xã hội dùng để chỉ các mối quan hệ do con người xây dựng, duy trì và phát triển trong cuộc sống với tư cách là thành viên của xã hội”. Theo lý thuyết này, quan hệ xã hội có thể đem đến cho các doanh nghiệp các cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn với chi phí thấp, do mối quan hệ xã hội sẽ gắn kết các thành viên với nhau và cung cấp thông tin cần thiết cho các bên tham gia.
Trong nghiên cứu thực nghiệm, lý thuyết này giải thích cho “Mối quan hệ của doanh nghiệp”. Mối quan hệ con nợ và chủ nợ làm giảm lãi suất, cho thấy mối quan hệ mang lại thông tin quan trọng về chất lượng người đi vay trong thị trường tín dụng Việt Nam (John Rand, 2007). Một trong những lý do làm giảm khả năng tiếp cận nguồn tài chính của DNNVV là hạn chế trong “mối quan nghiệp vụ” và “mối quan hệ xã hội” của chủ DN với ngân hàng (Nguyễn Thị Cành, 2008)
1.3.1.3. Lý thuyết kinh tế học thể chế
Lý thuyết kinh tế học thể chế được Jankowicz, AD and Hisrich, RD.(1987), Nguyễn Hồng Hà và cộng sự (2013), CIEM, DoE, ILSSA and UNU-WIDER (2016), Trần Quốc Hoàn (2018), dùng phân tích tác động của chi phí vốn vay và chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại.
Lý thuyết KTH thể chế đề xuất bởi Olson (1971), North & Thomas (1973), Hardin (1982) tiếp tục kế thừa và được North (1991) phát triển với tác phẩm “Institutions, Institutional Change and Economic Performance” (Các thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế).
Thể chế được hiểu là một hệ thống luật chơi mà các bên tham gia phải tuân theo. Đó là các quy tắc mà các bên hợp tác đặt ra và cùng phải tuân thủ.
Lý thuyết này cho rằng, trong thực tiễn có những hoạt động mà chỉ có sự kết hợp cùng nhau mới tối ưu hóa được lợi ích, nhưng mỗi bên lại muốn tối ưu lợi ích của mình và điều này tác động đến bên kia. Các hành vi vì động cơ cá nhân khiến các bên không muốn hợp tác, ngay cả khi hợp tác đem đến lợi ích cho mọi người.
Theo lý thuyết Kinh tế học thể chế thì thể chế sẽ giúp gia tăng giám sát nhằm bảo đảm các bên tuân thủ đúng luật chơi đã thỏa thuận. Theo North (1991), lần đầu khi hợp tác, các bên sẽ mất không ít thời gian, công sức để bảo đảm không bị lừa gạt.
Trong nghiên cứu thực nghiệm, lý thuyết này là cơ sở để xem xét các nhân tố: chi phí vay vốn và chính sách tín dụng của TCTD. Theo lý thuyết này quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và TCTD chỉ có thể diễn ra khi cả hai bên đều thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng tín dụng. Doanh nghiệp sẽ gặp không dễ TCVTD khi không có thương hiệu, chưa tạo được uy tín với ngân hàng hoặc thiếu quan hệ cần thiết. Các TCTD sẽ ưu ái cấp tín dụng cho doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp có giao dịch nhiều hơn là cho các DN nhỏ, DN mới thành lập, do TCTD mất thời gian, công sức để đưa ra “luật chơi” phù hợp để giảm thiểu rủi ro. Và trong bối cảnh bất ổn của kinh tế vĩ mô thì càng đòi hỏi các bên phải thực hiện nghiêm ngặt luật chơi.
Các yếu tố bên ngoài DNNVV tác động đến khả năng tiếp cận vốn bao gồm can thiệp của chính phủ và các rào cản do chính NHTW quy định (Kyaw, 2008). Các DN có vốn nhỏ, TSBĐ thấp, năng lực lập DAĐT/PAKD yếu, thông tin không minh bạch, sẽ làm cản trở cho việc TCVTD ngân hàng. Bên cạnh đó, nguyên nhân do chính sách TD của TCTD như lãi suất, thủ tục, thời hạn vay, làm tăng thêm khó khăn cho DNNVV trong tiếp cận vốn (Nguyễn Hồng Hà và đồng sự, 2013).
1.3.1.4. Lý thuyết phân bổ tín dụng
Lý thuyết phân bổ TD được khởi xướng bởi Stiglitz, J.E và Weiss, A (1981) trong tác phẩm “Credit rationing in markets with imperfect information” (Phân bổ tín dụng trong các thị trường có thông tin không hoàn hảo). Lý thuyết này dựa trên quy luật cung cầu cho rằng, bên cầu tín dụng luôn muốn lợi ích tối đa từ việc vay vốn của bên cung tín dụng, và để có thể dùng số vốn vay này, doanh nghiệp phải trả lãi cho NHTM được thống nhất giữa hai bên. Nhưng Stiglitz & Weiss (1981) cũng chỉ ra rằng nếu chỉ dựa vào lãi suất thì cung- cầu tín dụng sẽ không thể giải thích được mức độ TCVTD của DN, do việc cấp tín dụng được căn cứ vào lãi suất trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào các NHTM đánh giá về doanh nghiệp với những thông tin mà NHTM có được về tín dụng nghĩa là, NHTM quyết định cấp tín dụng và cấp bao nhiêu được căn cứ vào những thông tin mà NHTM có được về doanh nghiệp. Như vậy, việc ra quyết định cấp vốn tín dụng của NHTM không chỉ tuân theo qui luật Cung – Cầu, mà còn là một quá trình đánh giá dựa những thông tin và cách đánh giá của NHTM đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Stiglitz & Weiss (1981) cho rằng, NHTM không dễ xác định rõ mức rủi ro/khả năng trả nợ của DN do thông tin “bất đối xứng”. Đó là lý do mà các NHTM hạn chế cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Thông tin “bất đối xứng” xuất hiện trong quan hệ tín dụng khi mà NHTM có ít thông tin hơn doanh nghiệp về tình hình tài chính, mục đích và quá trình dùng vốn vay của doanh nghiệp, dẫn đến ngân hàng không còn chính xác trong việc ra quyết định cấp tín dụng. Thông tin bất đối xứng làm cho NHTM không tin tưởng cấp tín dụng cho doanh nghiệp do hai vấn đề đó là sự chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Để hạn chế rủi ro, các NHTM phải thu thập thông tin về doanh nghiệp, về các DAĐT/PAKD của DN. Việc sử dụng TSBĐ là một trong những phương thức phổ biết nhất để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Trong những trường hợp cụ thể, NHTM có thể quyết định không cấp tín dụng, cấp tín dụng ít hơn nhu cầu của doanh nghiệp hoặc cấp tín dụng nhưng với lãi suất cao căn cứ vào mức độ rủi ro mà NHTM đánh giá về doanh nghiệp dựa vào thông tin mà ngân hàng có được.
Lý thuyết này giải thích cho hầu hết các các nhân tố tác động đến khả năng TCVTD của doanh nghiệp bao gồm: vốn của doanh nghiệp, TSBĐ, Phẩm chất/năng lực của chủ doanh nghiệp, Khả năng trả nợ, Minh bạch tài chính, Lịch sử vay nợ của doanh nghiệp và Chi phí vay vốn, Chính sách tín dụng của tổ chức tín dụng (Jankowic, AD and Hisrich. RD, 1987; Võ Trí Thành và cộng sự, 2011; Kung’s, Gabriel kamau, 2011; Hasnah Haronet al, 2013; Nguyễn Hồng Hà và cộng sự, 2013; Đặng Thị Huyền Hương, 2016; Đặng Thị Thu Hằng 2017; Trần Quốc Hoàn, 2018; Nguyễn Thu Thủy và cộng sự, 2019).
Lý thuyết phân bổ tín dụng là lý thuyết nền quan trọng nhất được tác giả tựa vào để thực hiện nghiên cứu của mình. Lý thuyết này được kết hợp với các lý thuyết: Lý thuyết kinh tế có điều tiết của Keynes (1936); Lý thuyết kinh tế học thể chế Olson (1971); Lý thuyết mạng lưới xã hội của Granovetter (1973) để làm rõ hơn những nội dung và lý thuyết phân bổ tín dụng không đề cập đến.
1.2.3. Các nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng từ quỹ tín dụng nhân dân của doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Từ cơ sở luận và các nghiên cứu về DNNVV (trong đó bao hàm cả DNNVSN), có thể phân chia những nhân tố tác động đến TCVTD của DNNVSN thành ba nhóm: Nhóm các nhân tố thuộc về DNNVSN; Nhóm các nhân tố thuộc về QTDND và Nhóm các nhân tố khác.
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
- Năng lực của lãnh đạo DNNVSN
Trình độ, năng lực của chủ DNNVSN tác động quan trọng đến việc phê duyệt cấp tín dụng cho doanh nghiệp vì nó là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Những chủ doanh nghiệp có kiến thức tốt sẽ dễ TCVTD hơn vì họ có năng lực điều hành, khả năng trình bày thông tin tài chính, kế hoạch kinh doanh tốt. Khi chủ DNNVSN có kinh nghiệm và chuyên môn tốt thì khả năng TCVTD sẽ cao hơn.
- Quan hệ của doanh nghiệp
Quan hệ của DNNVSN với QTDND được duy trì thì khả năng TCVTD của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn. Các DN có ít mối quan hệ thì các TCTD ít tin tưởng để cấp tín dụng. Những DNNVSN có những quan hệ thường xuyên với QTDND thì QTDND nắm được thực trạng SXKD của DN, dòng tiền của doanh nghiệp, qua đó thấy được khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi DNNVSN thường xuyên có các giao dịch với QTDND thì sẽ dễ TCVTD hơn. Các doanh nghiệp không có/ít có quan hệ với QTDND thì QTDND sẽ không có đủ thông tin về DN, điều này làm giảm mức độ tin tưởng trong xem xét cấp vốn tín dụng cho doanh nghiệp. Các QTDND không chỉ quan tâm các doanh nghiệp vay vốn mà còn chú ý đến việc dùng các SPDV khác của doanh nghiệp. Do đó, những DNNVS đã sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ của QTDND thì việc TCVTD cũng sẽ dễ hơn. Mối quan hệ giữa QTDND và DNNVSN sẽ tạo ra sự tin tưởng giữa hai bên. Các DNNVSN có quan hệ tốt với chính quyền, với doanh nghiệp khác, sẽ giúp họ dễ dàng nắm bắt được những cơ hội đầu tư, chính sách hỗ trợ, gặp gỡ với cơ quan quản lý. Qua đó, giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội đầu tư, hợp tác SXKD, qua đó cải thiện năng lực tài chính, thỏa mãn tốt hơn các điều kiện cấp tín dụng của QTDND.
Các DNNVSN khi tham gia vào các HHDN cũng sẽ giúp họ TCVTD dễ dàng hơn. Các HHDN sẽ là cầu nối giúp DNNVSN trong việc TCVTD tốt hơn. HHDN sẽ liên kết với các QTDND và cung cấp cho DN những chương trình, khoản vay ưu đãi đến doanh nghiệp. Ngoài ra HHDN cũng thông tin về tài chính, uy tín của doanh nghiệp thành viên cho QTDND thẩm định và cấp tín dụng, cũng như giới thiệu doanh nghiệp có tiềm lực tốt, uy tín cho QTDND xem xét.
(3) Tài sản bảo đảm
DNNVSN sẽ khó TCVTD nếu thiếu TSBĐ hoặc giá trị của TSBĐ nhỏ, quyền sở hữu tài sản không rõ ràng. Giá trị TSBĐ của doanh nghiệp lớn và thanh khoản cao là ưu thế của doanh nghiệp trong TCVTD nói chung. Các QTDND dựa vào TSBĐ để cấp tín dụng cho DNNVSN để hạn chế rủi ro khi doanh nghiệp không trả nợ, và khiến các doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với khoản nợ.
(4) Khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Khả năng trả nợ của DNNVSN được đánh giá qua sự khả thi của DAĐT/PAKD, quy mô và hiệu quả SXKD của doanh nghiệp.
Về dự án đầu tư/phương án kinh doanh
DAĐT/PAKD của DNNVSN khả thi là cơ sở tốt để QTDND quyết định cấp tín dụng, quy mô tín dụng, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Căn cứ vào DAĐT/PAKD của doanh nghiệp, cùng với các dữ liệu về SXKD, các đối tác của DNNVSN và thế mạnh của doanh nghiệp, các QTDND sẽ đánh giá tính khả thi, dự đoán được liệu DAĐT/PAKD của DN có tạo ra dòng tiền trong tương lai để trả nợ cho TCTD hay không. Nếu doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng là thế mạnh của doanh nghiệp và sản phẩm mà doanh nghiệp dự kiến tạo ra đang đáp ứng sự quan tâm của thị trường thì việc QTDND đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp trở nên dễ hơn.
Quy mô doanh nghiệp
Các tiêu chí đánh giá quy mô của doanh nghiệp gồm vốn, tài sản, doanh thu và số lao động qua các năm. Quy mô của doanh nghiệp quyết định năng lực của doanh nghiệp, do đó tác động đến việc xem xét cấp vốn tín dụng của QTDND.
Vốn chủ sở hữu được QTDND làm căn cứ nhìn nhận về tiềm lực của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu cho thấy khả năng chịu đựng thua lỗ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả cần cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay. QTDND sẽ cấp vốn tín dụng với một tỷ lệ tương ứng với vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu của DNNVSN đưa vào DAĐT/PAKD càng lớn thì QTDND càng tin tưởng khi cấp vốn tín dụng cho doanh nghiệp.
Tổng tài sản của DNNVSN bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Khi thẩm định các khoản vay, các QTDND sẽ quan tâm nhiều hơn đến tài sản lưu động vì tài sản lưu động càng lớn thì càng thể hiện năng lực của doanh nghiệp và khả năng trả nợ sẽ được bảo đảm hơn. Giá trị tài sản của doanh nghiệp càng lớn thì có mức độ đầu tư cao, doanh nghiệp có thực lực về tài chính, lợi nhuận tích lũy để đầu tư khả thi, có nhiều cơ hội kinh doanh, tương lai có nguồn thu tốt. Nếu có quy mô tài sản lớn, DNNVSN sẽ dễ dàng hơn trong TCVTD.
Nếu DNNVSN hoạt động SXKD không tốt, doanh thu, lợi nhuận giảm, thì sẽ khó được QTDND cấp vốn. DNNVSN có kết quả SXKD khả quan thì doanh nghiệp mới có thể thực hiện những cam kết với QTDND. Đối với những DNNVSN lợi nhuận tăng ổn định, sẽ được QTDND ưu tiên cấp tín dụng. Lợi nhuận DNNVSN tăng đồng nghĩa với việc DN đang hoạt động có hiệu quả, lợi nhuận sẽ cao hơn, đảm bảo thanh toán cho QTDND đầy đủ, đúng hạn thì việc TCVTD sẽ cao hơn. Nếu DNNVSN đã có thương hiệu, thì ít bị ảnh hưởng bởi rủi ro từ thị trường sẽ được QTDND ưu tiên cấp tín dụng, được hưởng mức lãi suất thấp hơn. Đối với những doanh nghiệp mới thành lập, thương hiệu chưa có thì các QTDND sẽ thẩm định chặt chẽ hơn khi cấp vốn tín dụng.
- Minh bạch tài chính của DNNVSN
Hệ thống thông tin tài chính của DNNVSN chưa đáng tin cậy sẽ là cản trở lớn trong việc phê duyệt cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Minh bạch tài chính của DNNVSN thấp thì thông tin về khả năng sinh lời của doanh nghiệp không đầy đủ. Điều này cản trở việc TCVTD của doanh nghiệp, do thiếu thông tin nên QTDND có thể tăng lãi suất để bù đắp rủi ro hoặc hạn chế cấp vốn tín dụng. Doanh nghiệp có BCTC được kiểm toán sẽ dễ dàng TCVTD hơn.
- Lịch sử vay nợ của DNNVSN
DNNVSN có hệ số nợ hợp lý sẽ cho biết hiệu quả sử dụng vốn của họ. Điều giúp tăng uy tín của doanh nghiệp với QTDND. Các DNNVSN có hệ số nợ phù hợp thì mức độ an toàn cho chủ nợ sẽ cao. Khi DNNVSN có hệ số nợ cao thì doanh nghiệp sẽ làm giảm khả năng được vay vốn tín dụng. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, QTDND luôn quan tâm đến các khoản nợ của DNNVSN để bảo đảm doanh nghiệp sẽ có thể trả khoản vay khi đáo hạn. Như vậy, để có thể TCVTD thì các doanh nghiệp phải đảm bảo không có nợ quá hạn, nợ xấu tại QTDND, trường hợp doanh nghiệp đang có nợ xấu tại TCTD khác, doanh nghiệp sẽ bị QTDND từ chối cấp vốn tín dụng.
1.2.3.2. Các nhân tố thuộc về quỹ tín dụng nhân dân
- Chính sách tín dụng đối với DNNVSN
Chính sách tín dụng của QTDND đối với DNNVSN phản ánh quy trình cấp tín dụng cho doanh nghiệp, nhằm thống nhất thực hiện. Nội dung của chính sách tín dụng gồm: Xác định thị trường tín dụng mục tiêu; Quy định quyền, trách nhiệm trong việc ra quyết định cấp tín dụng; Quy định hồ sơ, quy trình thẩm định và ra quyết định cấp
tín dụng; cách xác định lãi, phí, kỳ cho vay; Hạn mức cấp tín dụng đối với từng ngành, từng danh mục đầu tư; Quy định các sản phẩm tín dụng cung cấp cho DNNVSN.
Khi chính sách tín dụng khoa học, hài hòa lợi ích của QTDND và DNNVSN sẽ giúp cho doanh nghiệp TCVTD dễ hơn, qua đó giúp QTDND gia tăng quy mô và chất lượng tín dụng, mang lại lợi ích cho QTDND.Với mục tiêu hướng tới của các QTDND là phân khúc DNNVSN, các QTDND sẽ tích cực hơn trong việc cấp vốn tín dụng cho các doanh nghiệp này, khiến việc TCVTD của các DNNVSN dễ dàng.
- Các chi phí của DNNVSN để TCVTD
Để có thể TCVTD từ QTDND, DNNVSN phải trả những khoản chi phí như lãi vay, phí hồ sơ và các khoản phí khác.
Lãi cho vay là chi phí DNNVSN phải trả cho QTDND để có được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nào đó. Lãi suất thấp thì DNNVSN tiết kiệm được chi phí, giúp doanh nghiệp mở rộng SXKD, kích thích tăng trưởng kinh tế. Lãi vay chịu ảnh hưởng lớn bởi chính sách điều chỉnh lãi suất của NHNN. Khi lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm thì khả năng TCVTD của DNNVSN tăng và ngược lại. Khi lãi suất cho vay cao thì DNNVSN khó có thể lựa chọn vốn vay QTDND để tài trợ cho SXKD, qua đó làm giảm khả năng hấp thụ vốn vay. Khi đó, các DNNVSN sẽ chuyển hướng sang các nguồn vốn khác như vay người thân, vay doanh nghiệp khác,…
Để TCVTD từ QTDND, doanh nghiệp phải chịu các khoản phí như: phí hồ sơ, phí thẩm định TSBĐ, phí đăng ký giao dịch bảo đảm, hoặc mất chi phí thuê tư vấn của các bên liên quan để thỏa mãn điều kiện cấp vốn tín dụng của QTDND. Khi thủ tục, điều kiện cấp tín dụng không rõ ràng, cán bộ tín dụng không tư vấn tốt thì DNNVSN có thể mất thêm chi phí về thời gian và tiền bạc để có thể TCVTD. Bên cạnh đó, thủ tục cho vay cũng ảnh hưởng đến thời gian và chi phí của DNNVSN để TCVTD. Thủ tục cho vay cũng có thể làm tăng chi phí của DNNVSN. Doanh nghiệp có thể phải cung cấp quá nhiều giấy tờ pháp lý, làm quá nhiều thủ tục rườm rà, chờ đợi lâu để khoản vay được phê duyệt.
1.2.3.3. Các nhân tố khác
- Tính ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
Khi kinh tế vĩ mô ổn định, các DNNVSN sẽ hoạt động hiệu quả, nguồn vốn trong nền kinh tế lớn thì nguồn vốn tín dụng của các QTDND dồi dào hơn. Ngược lại, khi suy thoái kinh tế, các điều kiện SXKD gặp khó khăn, hoạt động cấp tín dụng của các QTDND cũng bị hạn chế, và các DNNVSN sẽ khó TCVTD hơn, cụ thể:
- Lãi suất dao động mạnh trong thời gian ngắn sẽ tác động tiêu cực đến DNNVSN trong việc hoàn thành nghĩa vụ nợ, làm doanh nghiệp mất lòng tin với QTDND và khó khăn trong các lần vay vốn tiếp
- Các điều kiện cấp tín dụng của QTDND chặt chẽ hơn làm cho doanh nghiệp khó TCVTD được.
- Sự không ổn định của nền thường kéo theo lạm phát cao, tỷ giá hối đoái không ổn định. Điều này đẩy lãi suất danh nghĩa tăng cao và kỳ hạn tín dụng sẽ ngắn hơn, làm cho doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng khó khăn hơn.
- Tính đồng bộ của hệ thống luật pháp
Hệ thống luật pháp ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp thông qua cơ chế, chính sách điều tiết vĩ mô, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước, trong đó có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp TCVTD. Từ đó thúc đẩy hoặc hạn chế sự doanh nghiệp phát triển.
- Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế
Cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thôn, điện, hệ thống cấp thoát nước,…, có tác động đến hoạt động SXKD của DNNVSN. Khi cơ sở hạ tầng được đồng bộ thì DNNVSN sẽ giảm được vốn đầu tư, chi phí vận chuyển, qua đó tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả SXKD, dễ mở rộng được thị trường, qua đó nâng cao khả năng TCVTD.
- Sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền địa phương
Các DNNVSN cũng rất cần sự hỗ trợ từ địa phương trong quá trình hoạt động. Chính quyền sở tại sẽ triển khai các chính sách của Nhà nước vào đặc thù của mỗi địa phương. Chính quyền địa phương triển khai các chính sách hỗ trợ riêng của mình đối với DNNVSN như cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ TCVTD, mặt bằng SXKD, đào tạo,… Và tháo gỡ những vướng mắc cho DNNVSN trong quá trình triển khai các chính sách sẽ tác động mạnh đến việc TCVTD của doanh nghiệp.
Tóm lại, khả năng TCVTD của DNNVSN phụ thuộc vào sự chủ động tiếp cận DNNVSN của QTDND để cấp vốn tín dụng. Sự chủ động tiếp cận DNNVSN của QTDND để cấp vốn tín dụng thực hiện qua việc QTDND mở rộng tín dụng nhằm đáp ứng vốn cho DNNVSN; chiến lược SXKD của QTDND hướng đến DNNVSN; QTDND chủ động hạ lãi suất cấp vốn tín dụng nhằm thu hút DNNVSN. Khả năng TCVTD của DNNVSN cũng phụ thuộc vào sự chủ động TCVTD từ QTDND của doanh nghiệp. Mức chủ động TCVTD từ QTDND của các doanh nghiệp thể hiện qua
tính năng động, trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp; khả năng lập DAĐT/PAKD; minh bạch thông tin tài chính; chủ động thiết lập quan hệ với chính quyền, các QTDND và các doanh nghiệp khác. Khả năng TCVTD của DNNVSN chịu ảnh hưởng không nhỏ vào sự chủ động của trung ương và địa phương nhằm hỗ trợ DNNVSN tiếp cận vốn tín dụng từ QTDND. Khi Chính phủ và địa phương thực thi có hiệu quả việc hỗ trợ DNNVSN thì khả năng TCVTD của doanh nghiệp sẽ tăng lên và ngược lại. Các ưu đãi dành cho DNNVSN thì sẽ khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển, nâng cao hiệu quả SXKD, qua đó kích thích DNNVSN mở rộng SXKD và tăng hiệu quả của nền kinh tế. Đồng thời với các chính sách hỗ trợ DNNVSN của Chính phủ sẽ góp phần khắc phục những điểm điểm yếu của doanh nghiệp, tạo môi trường cho thị trường tín dụng DNNVSN. Để DNNVSN phát triển, bên cạnh chính sách của Chính phủ thì vị trí của các địa phương rất quan trọng, đặc biệt là chính quyền cấp tỉnh, trong việc triển khai các chính sách của trung ương vào địa phương. Việc triển khai ở các địa phương có thể không giống nhau phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm của bộ máy tham mưu, thực thi chính sách ở cơ sở.