- Du học
Ngày nay, du học đã trở thành một là một khái niệm quen thuộc được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Theo OECD (The OECD Innovation Strategy 28 tháng 5 năm 2010) “Du học là việc đi học ở một nước khác nước hiện tại của người học đang sinh sống nhằm bổ sung thêm kiến thức, ngành nghề nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập của bản thân hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức tài trợ”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, du học là “đi học ở nước ngoài”. Còn theo điểm a, khoản 1, Điều 2 Nghị định 86/2021/NĐ-CP quy định việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật, định nghĩa du học sinh là “Công dân Việt Nam là học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh và người học ra nước ngoài học tập theo các khóa đào tạo, bồi dưỡng từ 03 tháng liên tục trở lên”
Nhìn nhận dưới góc độ cung cấp dịch vụ giáo dục, Du học là hình thức cung cấp dịch vụ giáo dục theo phương thức Tiêu dùng ở nước ngoài như đã tổng kết tại mục trên.
- Du học tại chỗ
Xuất hiện sau khái niệm du học, du học tại chỗ là khái niệm được hình thành và sử dụng ở Việt Nam khi dịch vụ giáo dục của nước ngoài đã được cung cấp qua biên giới vào Việt Nam, các tổ chức giáo dục quốc tế đã hiện diện thương mại tại Việt Nam hoặc hình thành các thể nhân để hoạt động tại Việt Nam.
Tham khảo định nghĩa của Wikypedia Du học tại chỗ là một hình thức đào tạo học tập mà học viên được theo học chương trình đào tạo ở nước ngoài mà không cần phải đến nước đó. Cũng theo Wikypedia Du học tại chỗ phải đảm bảo được việc chương trình du học tại chỗ được trường nước ngoài chuyển giao công nghệ đào tạo, giám sát chất lượng và cấp bằng tại quốc gia sở tại.
Theo trang thông tin điện tử của trường Đại học Swinburne Việt Nam, “Du học tại chỗ là hình thức học và nhận bằng quốc tế hoặc chất lượng tương đương từ các trường nước ngoài ngay tại Việt Nam với chi phí hợp lý”. Hoặc, du học tại chỗ là đào tạo đại học theo chuẩn quốc tế ngay tại Việt Nam (Phan Thủy Chi, 2020).
Ở Việt Nam hiện nay, hình thức du học tại chỗ đã trở thành một lựa chọn thay thế hiệu quả cho hoạt động du học với những ưu điểm so sánh với hoạt động du học. Đặc biệt là với bậc đào tạo Đại học là bậc học để người học ra đời, làm việc và tìm kiếm thu nhập trong môi trường xã hội Việt Nam. Với bối cảnh đó, du học tại chỗ đã góp phần tạo ra một phân khúc dịch vụ đào tạo bậc Đại học mới với nhiều ưu điểm và phù hợp với nhu cầu của người học ở. Việt Nam. Trong giai đoạn 2020-2022 vừa qua, khi dịch bệnh Covid tác động toàn diện đến các hoạt động của cuộc sống trong đó có giáo dục. Du học tại chỗ dần đang trở thành một lựa chọn thay thế cho du học và là một giải pháp linh hoạt đáp ứng được cả mục tiêu của người học và thích ứng với hoàn cảnh hạn chế của dịch bệnh.
Để có một khái niệm rõ ràng phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, tác giả thống nhất cách hiểu trong Luận án về du học tại chỗ là loại hình dịch vụ đào tạo được cung cấp xuyên biên giới, theo đó người học được theo học chương trình đào tạo và cấp bằng của nước ngoài tại Việt Nam trong đó chương trình đào tạo phải đảm bảo được nước ngoài chuyển giao công nghệ đào tạo, giám sát chất lượng.
- Các hình thức du học tại chỗ
Căn cứ vào cách hiểu về du học tại chỗ nêu trên, các hình thức Du học tại chỗ đã và đang xuất hiện trong giáo dục Đại học ở Việt Nam là: (1) Chương trình Liên kết đào tạo quốc tế bấc đại học cấp bằng tại Việt Nam ; (2) Các chương trình 100% nước ngoài của các trường Đại học Quốc tế tại Việt Nam.
- Chương trình liên kết đào tạo
Chương trình liên kết đào tạo quốc là những chương trình được phát triển và liên kết thực hiện, bởi các tổ chức ở các nước khác nhau.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao và nền giáo dục tiên tiến, như: Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản, các chương trình liên kết là nơi chuyển giao kiến thức, tuyển chọn được người học có đủ năng lực thậm chí là đội ngũ tinh hoa từ nước ngoài phục vụ để học tập theo chương trình. Đội ngũ này sau khi tốt nghiệp và tham gia và thị trường lao động, sẽ góp phần làm tăng uy tín của chương trình. Uy tín của chương trình càng cao, danh tiếng càng lan rộng và giá trị thương mại của nó càng lớn. Việc bảo đảm ổn định bền vững về chất lượng đào tạo của chương trình, cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội thay đổi nhanh chóng là điều kiện để chương trình đáp ứng hiệu quả yêu cầu của thị trường.
Với góc nhìn đào tạo là một quá trình làm tăng giá trị và kiến thức đối với các bên liên quan, đào tạo là một quy trình của nhiều khâu công việc nhằm thực hiện đầy đủ một quy trình cung ứng dịch vụ giáo dục. Các khâu công việc này, theo cách tiếp cận chuỗi giá trị của (Porter, 2008), có thể thấy, có nhiều khâu công việc như tuyển sinh, đào tạo với nhiều loại hoạt động thể chất và trí tuệ khác nhau, cấp bằng dựa trên những điều kiện vật chất về giảng đường, thư viện, trang thiết bị khác.
Kỹ thuật lai ghép quy trình đào tạo hiệu quả thành quy trình mới
Hình 2.1 Mô hình chương trình liên kết (lai ghép)
Nguồn: Tác giả và người hướng dẫn đề xuất
Theo mô hình (Hình 1), các cơ sở giáo dục đại học trong nước và nước ngoài căn cứ vào những thuộc tính và các khâu công việc cơ bản trong quy trình như tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng cùng với các điều kiện không thể thiếu là giáo viên và học liệu, phương pháp giảng dạy, đánh giá và lợi thế của quy trình để xây dựng quy trình đào tạo của chương trình liên kết. Chương trình này sẽ được hình thành trên cơ sở phân tích, đánh giá kỹ lưỡng các khâu công việc của mỗi đối tác. Do đó, kỹ thuật lai ghép sẽ lựa chọn những thuộc tính hay tính trạng nổi trội của mỗi bên để đưa vào chương trình liên kết nhằm tạo ra một chương trình liên kết phù hợp nhất của mỗi bên và người học. Do đó, năng lực phân tích thuộc tính và lợi thế của mỗi bên theo các khâu của quy trình như tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng. Các cơ sở đào tạo có uy tín thường rất thận trọng trong xác định tiêu chuẩn giáo viên có đủ trình độ cần thiết, chất lượng học liệu, tiêu chuẩn sinh viên và các điều kiện bảo đảm tốt nhất. Như vậy, các thế mạnh và lợi thế của các cơ sở đào tạo được tích hợp thực chất là lai ghép hiệu quả trong chương trình liên kết đào tạo quốc tế.Các chương trình liên kết đào tạo quốc tế là sản phẩm của quá trình lai ghép hiệu quả và chương trình liên kết đào tạo ra đời tạo điều kiện, như là sự kết hợp tốt nhất các yếu tố bổ sung cho nhau giữa các quy trình đào tạo và lợi thế của các bên. Tuy nhiên, các chương trình liên kết đào tạo là sản phẩm của sự hợp tác theo quy trình và hoạt động theo quy định pháp luật về giáo dục đại học, nhưng không hình thành một pháp nhân mới. Về hình thức pháp lý, hình thức chức đào tạo này thuộc phương thức hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân theo quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh trong đầu tư nước ngoài.Chương trình đào tạo quốc tế có cấu trúc kỹ thuật lai ghép chọn lọc tối ưu lợi thế của đối tác trong nước và đối tác quốc tế nhằm tăng giá trị của chương trình. Đây là chương trình đào tạo phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa thị trường dịch vụ giáo dục và tự do hóa thương mại dịch vụ triệt để. Quá trình vận hành theo đúng bản chất thương mại sẽ làm tăng giá trị của chương trình nói riêng và cơ sở giáo dục nói chung thông qua các tác động lan toả nhiều chiều và đa dạng theo các khâu của quy trình đào tạo.
- Chương trình 100% nước ngoài (Của các trường Đại học nước ngoài tại Việt Nam).
Chương trình 100% nước ngoài có thể được hiểu là chương trình đào tạo của Trường Đại học nước ngoài được chính hiện diện thương mại của Trường Đại học đó tại Việt Nam tổ chức. Theo đó để đảm bảo là chương trình 100% nước ngoài thì cần có 02 yếu tố bao gồm (1) Chương trình được áp dụng là chương trình của trường Đại học nước ngoài – Theo chuẩn nước ngoài; và (2) Do chính cơ sở đào tạo (hiện diện thương mại) của trường Đại học sở hữu chương trình đào tạo tại Việt Nam tổ chức.
Đối với các chương trình đào tạo đại học nói chung, hay chương trình du học tại chỗ nói riêng việc thu hút được sinh viên thích hợp được xem là yếu tố sống còn của chương trình. Các nghiên cứu cho thấy thách thức chính của các trường đại học để tồn tại và phát triển được là cần thu hút được các sinh viên giỏi hàng năm, và cạnh tranh với các trường đại học khác (Johnton, 2010). Điều này cũng đúng với các chương trình du học tại chỗ. Để tồn tại và phát triển được chương trình thì yêu cầu cần thiết phải thu hút được sinh viên hàng năm và cạnh tranh được với các chương trình của các trường đại học khác. Điều này lại dẫn đến việc các trường đại học, các chương trình du học tại chỗ phải có chiến lược thu hút sinh viên (Joseph và cộng sự, 2012), truyền thông cho sinh viên tương lai về lợi ích của việc lựa chọn ghi danh học tại chương trình học của mình (Johnston, 2010). Để thúc đẩy quá trình ra quyết định của các cá nhân nói chung, hay thúc đẩy sinh viên lựa chọn một chương trình học cụ thể có một số lý thuyết khác nhau có thể áp dụng. Các nhóm lý thuyết tập trung vào đánh giá ảnh hưởng của (1) thông tin hay tín hiệu đến quá trình ra quyết định; (2) lý thuyết về nhận thức hành vi (TRA/TPB); và (3) lý thuyết về kỳ vọng lợi ích. Các nhóm lý thuyết này cũng đã được ứng dụng trong đánh giá lựa chọn chương trình học trong các nghiên cứu trước đây. Trong phạm vi của luận án này giới thiệu ba nhánh lý thuyết chính này như những lý thuyết liên quan trực tiếp đến quá trình ra quyết định của một cá nhân. Đồng thời các lý thuyết này cũng được xem là cơ sở để luận án xây dựng khung phân tích (mô hình nghiên cứu của luận án). Cụ thể như sau: