Đặc điểm xúc tiến du lịch

Xúc tiến du lịch có những đặc điểm chủ yếu sau:
* Về bản chất: Xúc tiến du lịch là hoạt động thương mại, có tác dụng thúc đẩy cơ hội thực hiện các hoạt động mua bán, cung ứng sản phẩm dịch vụ du lịch.
* Về chủ thể: Chủ thể thực hiện XTDL là thương nhân, ngoài ra còn có các tổ chức, cá nhân khác hoạt động liên quan đến du lịch.
* Về mục đích: Xúc tiến du lịch nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội cung ứng sản phẩm dịch vụ du lịch. Lý luận và thực tiễn kinh doanh cho thấy, các biện pháp thông tin du lịch, quảng cáo, triển lãm du lịch…, nhằm giới thiệu, khuếch trương cho thương nhân và hoạt động du lịch của họ đều mang lại hiệu quả phát triển du lịch, bao gồm cả đầu tư. Như vậy, lý luận cũng như thực tiễn kinh doanh không hạn chế mục đích tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội đầu tư để phát triển du lịch nói chung.
* Về hình thức pháp lý để xúc tiến du lịch: Luật Du lịch năm 2017 không quy định cụ thể, nhưng Luật Thương mại năm 2005 quy định các hình thức: Khuyến mại; quảng cáo; giới thiệu sản phẩm dịch vụ; hội chợ, triển lãm để thực hiện khi XTDL. Trong khi đó, tùy thuộc vào nhu cầu của thương nhân kinh doanh và mức độ phát triển của nền kinh tế, có thể có những hình thức khác cũng mang lại tác dụng thúc đẩy cơ hội du lịch cho thương nhân hoặc thương nhân có thể kết hợp áp dụng đồng thời nhiều hình thức XTDL.
Vì vậy, nghiên cứu lý luận có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật thực định.
a. Thương nhân du lịch – Chủ thể tiến hành xúc tiến du lịch
Tiếp cận dưới góc độ pháp luật thương mại, tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội du lịch là nhu cầu và hoạt động tất yếu của thương nhân nói chung, chứ không riêng gì các thương nhân trong lĩnh vực du lịch. Pháp luật thừa nhận quyền tiến hành hoạt động XTDL của thương nhân nhằm điều chỉnh hài hòa lợi ích của các chủ thể liên quan đến việc thực hiện hoạt động này của họ.
Thương nhân là tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại một cách thường xuyên và mang tính nghề nghiệp. Để thừa nhận tư cách thương nhân, làm cơ sở xác định đối tượng áp dụng pháp luật; pháp luật các nước quy định một hay một số dấu hiệu cần thiết để nhận diện thương nhân với tư cách là chủ thể của các quan hệ pháp luật. Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định:“1. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. 2. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. 3. Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ…”
Như vậy, theo Luật Thương mại hiện hành, thương nhân du lịch bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Theo quy định này, chủ thể kinh doanh được coi là thương nhân khi hội đủ ba điều kiện: (Một), là cá nhân hoặc tổ chức thành lập hợp pháp; (Hai), có hoạt động thương mại về du
38
lịch độc lập thường xuyên, trong đó, hoạt động thương mại về du lịch được hiểu là mọi hoạt động có mục đích sinh lời diễn ra trong các lĩnh vực mua bán, cung ứng dịch vụ du lịch; (Ba), có đăng ký kinh doanh khi thực hiện các hoạt động thương mại về du lịch. Quy định mở về “hoạt động thương mại” cho phép xác định mọi tổ chức, cá nhân đăng ký kinh doanh du lịch trong nền kinh tế đều là thương nhân du lịch, đều chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Du lịch và các luật liên quan khi hoạt động thương mại nói chung và XTDL nói riêng.
Về nguyên tắc, chi nhánh, văn phòng đại diện của thương nhân không phải là chủ thể độc lập tham gia quan hệ pháp luật. Do vậy, việc thực hiện các hoạt động XTDL phụ thuộc vào sự ủy quyền của thương nhân và thương nhân phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hoạt động XTDL của các chủ thể đó. Chi nhánh có chức năng hoạt động kinh doanh nên trong phạm vi thẩm quyền hoạt động của chi nhánh, pháp luật không giới hạn quyền hoạt động XTDL của chi nhánh. Đối với văn phòng đại diện, do chỉ làm chức năng đại diện cho thương nhân nên không trực tiếp thiết lập các quan hệ du lịch, kể cả quan hệ XTDL, trừ khi được thương nhân ủy quyền từng trường hợp cụ thể. Phạm vi, mức độ tham gia quan hệ XTDL của chi nhánh, văn phòng đại diện của thương nhân sẽ được xác định theo pháp luật thực định về vấn đề này.
Thương nhân hoạt động XTDL tại Việt Nam gồm nhiều loại:
– Phụ thuộc vào quốc tịch của thương nhân thì có thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài, trong đó thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận.
– Phụ thuộc vào mục đích thực hiện quyền hoạt động XTDL, có thể chia thành hai loại: Thương nhân hoạt động XTDL cho mình và thương nhân kinh doanh dịch vụ XTDL. Thương nhân hoạt động XTDL cho mình tự thực hiện các biện pháp XTDL để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán, cung ứng sản phẩm dịch vụ du lịch cho mình trên cơ sở quyền tự do hoạt động XTDL được pháp luật ghi nhận. Thương nhân kinh doanh dịch vụ XTDL thực hiện các hoạt động
XTDL nhưng nhằm mục đích tìm kiếm thúc đẩy cơ hội thương mại liên quan tới du lịch cho thương nhân khác trên cơ sở hợp đồng dịch vụ để hưởng thù lao.
– Ngoài ra, phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động của thương nhân, có thể phân thành hai loại: Thương nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch và thương nhân hoạt động liên quan tới lĩnh vực du lịch. Thứ nhất, thương nhân kinh doanh lữ hành thực hiện việc giới thiệu, quảng cáo các sản phẩm dịch vụ của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng và in ấn các tờ rơi, thành lập các trang thông tin điện tử để trước tiên là quảng cáo các sản phẩm dịch vụ du lịch của mình, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, địa phương ra quốc tế và các khu vực khác một cách rộng rãi. Các doanh nghiệp du lịch được quyền chủ động hoặc phối hợp với các tổ chức, cá nhân khác để tiến hành các hoạt động
XTDL trong và ngoài nước, tham gia các chương trình XTDL quốc gia. Chi phí hoạt động xúc tiến quảng bá của doanh nghiệp được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp. Thứ hai, các thương nhân nói chung khác, tuy không ghi nhận du lịch là mục tiêu kinh doanh của mình nhưng hoạt động của các thương nhân này lại có mức độ liên quan nhất định tới việc hỗ trợ, ngành du lịch thuận lợi hơn. Đây có thể là những doanh nghiệp, tập đoàn không hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực du lịch nhưng lại có tính chất phụ trợ, góp phần vào sự phát triển của ngành du lịch, ví dụ như: Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines), Vietjet Air, các doanh nghiệp vận tải đường bộ, đường thủy, các ngân hàng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu… Các doanh nghiệp này thực hiện hoạt
động kinh doanh thường ngày và liên tục của mình nhưng lại gián tiếp tuyên truyền, quảng bá, XTDL nói chung.
Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên nhưng không phải đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật cũng có quyền hoạt động XTDL.
Trước đây, Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04/4/2006 của Chính phủ cho rằng do tính chất nhỏ lẻ của chủ thể này so với thương nhân, quyền hoạt động XTDL của nhóm này có phạm vi giới hạn hơn và không được phép thực hiện một số hình thức XTDL phức tạp, như tổ chức chương trình có tính may rủi, phiếu dự thi, chương trình khách hàng thường xuyên, tổ chức hội chợ, triển lãm ở trong
và ngoài nước (khoản 3, Điều 2). Tuy nhiên khi có Nghị định 81/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 thay thế Nghị định 37/2006/NĐ-CP, nhìn chung, cá nhân hoạt động thương mại độc lập được hưởng quyền hoạt động XTDL gần như tương đương với thương nhân.
Phạm vi luận án chỉ nghiên cứu hoạt động XTDL của thương nhân kinh doanh du lịch mà không mở rộng ra hoạt động cung ứng dịch vụ XTDL của thương nhân kinh doanh dịch vụ XTDL nói chung cho các thương nhân du lịch.
b. Các thành tố tác động đến môi trường xúc tiến du lịch của thương nhân * Chính sách và hoạt động quản lý, phát triển du lịch
Các quốc gia có nhiều hoạt động đa dạng tạo môi trường thuận lợi liên quan đến XTDL của thương nhân như: Đề ra chính sách du lịch, ban hành pháp luật, thiết lập các quan hệ ngoại giao – thương mại, du lịch và những hoạt động XTDL cụ thể.
Nội dung hoạt động XTDL của Nhà nước (Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ) được quy định từ Điều 67 đến Điều 75 Luật Du lịch năm 2017) thể hiện ở hai phương diện:
– Trực tiếp thực hiện các hoạt động XTDL ở tầm vĩ mô với tư cách quản lý nhà nước về XTDL; thành lập các cơ quan XTDL và thực hiện XTDL thông qua các tổ chức đó (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch, Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch…); đàm phán và ký kết các hiệp định du lịch song phương, đa phương, tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng hơn cho thương nhân và dịch vụ du lịch của thương nhân; hoạt động thông tin du lịch quốc gia…
– Để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động XTDL, Chính phủ thực hiện các hoạt động chủ yếu như xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp để điều chỉnh hoạt động XTDL, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện các quy định pháp luật về XTDL; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình XTDL, định hướng và phát triển các hoạt động XTDL của quốc gia, doanh nghiệp. Chính phủ thành lập các cơ quan, tổ chức trực thuộc để thực hiện chức năng XTDL.
Ở Việt Nam, Tổng cục Du lịch (trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động XTDL ở trong nước và ở nước ngoài; điều phối các hoạt động XTDL liên vùng, liên địa phương theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Bên cạnh đó, xây dựng các sản phẩm tuyên truyền, quảng bá du lịch, các chương trình, sự kiện, hội nghị, hội chợ, hội thảo về du lịch cấp quốc gia, khu vực và quốc tế; nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, phân loại thị trường du lịch ở trong nước và ở nước ngoài; nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách phát triển thị trường, sản phẩm du lịch và nguồn nhân lực du lịch; tổ chức thực hiện các dự án đầu tư về du lịch thuộc thẩm quyền theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra còn có Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tên giao dịch tiếng Anh của Quỹ là: “Viet Nam Tourism Development Fund”; tên viết tắt là “VTDF” được thành lập theo Quyết định số 49/2018/QĐ-TTg ngày 12/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là đại diện chủ sở hữu. Quỹ là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có báo cáo tài chính riêng, có con dấu, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng thương mại hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, bố trí kinh phí tổ chức triển khai hoạt động XTDL; hỗ trợ các hoạt động phát triển du lịch theo quy định của Luật Du lịch, phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam.
Các phương diện hoạt động của Chính phủ liên quan đến XTDL có tác động trực tiếp đến hoạt động du lịch và XTDL của thương nhân. Môi trường pháp lý kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, các hiệp định du lịch song phương, đa phương được ký kết… tạo thuận lợi cho thương nhân tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch, thâm nhập mạnh hơn vào thị trường du lịch thế giới.
* Môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động xúc tiến du lịch Động lực để thương nhân hoạt động XTDL, mở rộng thị trường, tìm kiếm
mục tiêu chính là do cạnh tranh. Do đó, lợi ích kinh tế của các đối thủ cạnh tranh với thương nhân XTDL có thể bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại do các hành vi XTDL không lành mạnh như giảm giá dịch vụ du lịch quá mức, quảng cáo có dấu hiệu so sánh, sai sự thật, không đúng với chất lượng dịch vụ…Vì vậy, khi điều chỉnh quyền tự do hoạt động XTDL của thương nhân, pháp luật còn quan tâm, bảo vệ đảm bảo việc cạnh tranh lành mạnh giữa các thương nhân.
* Bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng (khách hàng)
Mục tiêu mà thương nhân hướng tới trong XTDL chính là người tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ du lịch (khách hàng, khách du lịch). Người tiêu dùng là mọi tổ chức, cá nhân, bao gồm cả tổ chức, cá nhân kinh doanh (đại lý bán lẻ, thương nhân khác). Người tiêu dùng là đối tượng tiếp nhận thông tin về dịch vụ du lịch của thương nhân, là đối tượng được hưởng lợi ích mà thương nhân phát tặng hoặc hứa thưởng. Các hành vi gian lận, thiếu trung thực của thương nhân đều có thể ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Vì vậy, pháp luật đều coi trọng vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi thừa nhận quyền tự do hoạt động XTDL của thương nhân.
Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *