Khái niệm quyền con người và đảm bảo quyền con người

Khái niệm quyền con người

Lịch sử tư tưởng về QCN, lịch sử hình thành và phát triển của QCN, lý luận về QCN, thực hiện QCN ở các nước trên thế giới, ở từng khu vực, ở từng quốc gia và việc nghiên cứu về QCN cho thấy QCN là một trong những thành tựu phát triển của xã hội loài người, là một giá trị trong hệ các giá trị của nhân loại, của toàn cầu [153]. Quyền con người là một khái niệm trừu tượng và vô cùng phức tạp, được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, tôn giáo, sử học, kinh tế, luật pháp,… nên tùy góc độ mà cách tiếp cận cũng khác nhau. Nếu hiểu theo một cách chung khái quát nhất thì: “Quyền con người là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thụ thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người” [61, tr. 16]. Liên hợp quốc cho rằng khái niệm này lần đầu xuất hiện vào những năm 539 trước công nguyên. Đó là khi quân của Cyrus Đại đế chinh phục Babylon và ông tuyên bố giải phóng nô lệ, mọi người đều có quyền lựa chọn tôn giáo cho riêng mình [195]. QCN cũng được biết tới thông qua nhiều các học thuyết trong tôn giáo, tín ngưỡng hay gắn với đạo đức xã hội. Ví dụ như tại Việt Nam, là một quốc gia phương Đông truyền thống, QCN từ bao đời nay được thể hiện trong quan hệ ứng xử, sinh hoạt thường nhật; trong các phong tục, tập quán về vòng đời con người; trong văn chương, văn hóa nghệ thuật dân gian hay trong các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo và trong các luật tục, hương ước, quy ước cộng đồng [198]. Như vậy, QCN không chỉ là các quyền tự nhiên sẵn có mà nó còn hiện hữu ở mọi nơi chốn chỉ cần ở đó có con người tồn tại.

Thời kỳ đầu, mặc dù QCN được xem là các quyền tự nhiên nhưng việc công nhận và ghi nhận các quyền ấy trong các văn bản pháp lý thuộc hệ thống pháp luật quốc gia của các nước trên thế giới là cả một cuộc đấu tranh dai dẳng qua nhiều thế kỷ. Một trong nhiều những cuộc đấu tranh và sau này trở thành một dấu mốc quan trọng là việc Đại Hiến Chương (Magna Carta) được vua John của Anh phê chuẩn ở gần Windsor, Anh vào ngày 15 tháng 6 năm 1215. Đại Hiến Chương ghi nhận một trong những nguyên tắc đầu tiên thể hiện QCN là “không có bất cứ một người tự do nào có thể bị giam cầm hay bỏ tù, bị tước quyền hoặc tịch thu tài sản, bị đặt ngoài vòng pháp luật hoặc bị tước địa vị dưới bất kỳ hình thức nào” [197]. Tiếp đó là Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 1789. Mặc dù không đưa ra định nghĩa đầy đủ về QCN nhưng hai bản tuyên ngôn này đã liệt kê một số QCN cơ bản như quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Ngày nay, QCN được thừa nhận là một khái niệm toàn cầu, đã được ghi nhận trong tuyên bố của Hội nghị thế giới Vienna về QCN năm 1993 và các nghị quyết của Liên hợp quốc đã được thông qua nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Tuyên ngôn thế giới về QCN năm 1998. Thống kê số liệu trong tài liệu Hỏi Đáp về Nhân quyền của Liên hợp quốc (United Nations: Human rights: Questions and Answers) thì có đến gần 50 định nghĩa QCN được công bố, khái niệm QCN được đề cập tại nhiều văn bản của các tổ chức quốc tế khác nhau và được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới [72, tr. 17].

Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, QCN là: “Những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người” [73, tr. 23], [166, tr. 4].

Căn cứ vào những giá trị nền tảng của QCN, vào Tuyên ngôn thế giới về QCN, vào các Công ước quốc tế về QCN thì QCN là: “nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của con người được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia” [122].

Như vậy, mặc dù cách nêu định nghĩa khác nhau nhưng cần đặc biệt lưu ý rằng luật nhân quyền quốc tế đều thừa nhận và nhấn mạnh rằng tất cả các QCN là phổ quát, không thể phân chia và có mối quan hệ với nhau [75, đoạn 5]. Trong pháp luật quốc gia, QCN cũng được định nghĩa rất đa dạng, cụ thể:

Đạo luật về QCN của Austraylia năm 1986 định nghĩa tại Điều 3 như sau: “Quyền con người nghĩa là các quyền và tự do được ghi nhận trong Công ước (Công ước về các quyền dân sự và chính trị), được thừa nhận bởi các Tuyên bố (Tuyên ngôn về quyền trẻ em 1959, Tuyên bố về Quyền của những người chậm phát triển trí tuệ 1971, Tuyên bố về quyền của người khuyết tật 1975) hoặc được công nhận hoặc tuyên bố bởi bất kỳ văn kiện quốc tế liên quan nào”.

Đạo luật Nhân quyền Quốc gia của Hàn Quốc năm 2001, sửa đổi năm 2016 định nghĩa tại Điều 2 như sau: Thuật ngữ “quyền con người” có nghĩa là bất kỳ quyền và tự do nào, bao gồm nhân phẩm và giá trị của con người, được bảo đảm bởi Hiến pháp và pháp luật Hàn Quốc, được công nhận bởi các hiệp ước nhân quyền quốc tế được Hàn Quốc ký kết và phê chuẩn, hoặc được bảo vệ bởi tập quán pháp.

Pháp luật Việt Nam không xây dựng một định nghĩa riêng về QCN. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bình đẳng của mỗi người và của mỗi dân tộc là quyền do tạo hóa ban tặng và không thể bị tước bỏ”. Trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, Việt Nam đã chính thức ghi nhận các quyền thiêng liêng của con người [91, chương II]. Tiếp đó là các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và mới đây là bản Hiến pháp năm 2013 ngày càng hoàn thiện và đảm bảo đầy đủ các QCN. Hiến pháp 2013 lần đầu tiên đã ghi nhận về QCN (độc lập với quyền công dân) tại vị trí trang trọng bậc nhất trong tổng thể các nội dung của Hiến pháp (Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là Chương thứ 2 của Hiến pháp 2013, ngay sau Chương về Chế độ chính trị) và dành 36 điều (trên tổng số 120 điều của bản Hiến pháp này) để quy định về nguyên tắc, đặc điểm, nội dung… của các QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các Bộ luật, Luật và các văn bản pháp luật khác trong phạm vi điều chỉnh của mình quy định chi tiết, cụ thể về các vấn đề có liên quan đến nội dung, đặc điểm, giới hạn, phạm vi… và việc bảo đảm, bảo vệ QCN, quyền công dân (như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thuế, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Ký kết và gia nhập điều ước quốc tế,…).

Dù được tiếp cận ở khía cạnh nào thì QCN cũng có nguồn gốc và thuộc về bản chất tự nhiên của con người. Điều này có nghĩa là QCN gắn với mỗi cá nhân từ khi người này được sinh ra cho tới khi chết đi mà không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào khác như giới tính, văn hóa, dân tộc, màu da, ngôn ngữ,… Như vậy, QCN là: Bất kỳ quyền nào gắn với mỗi con người, cũng là toàn bộ những quyền của một cá nhân được sinh ra trong xã hội, quyền này mang tính chất nhân bản bởi nó là quyền được hình thành ngay sau khi con người được sinh ra, thuộc về bản chất con người chứ không phải do pháp luật quy định hoặc do nhà nước trao cho. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và thuộc về con người, như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc…, những quyền tối thiểu của con người mà bất kì chính phủ nào cũng phải bảo vệ. Theo nguyên tắc quyền công dân xuất phát từ QCN trong lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (hay còn gọi là nguyên tắc tôn trọng quyền con người) [42, tr. 178], trong phạm vi luận án này, QCN được nghiên cứu bao gồm các QCN, quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp 2013 và được quy định chi tiết trong các văn bản pháp luật.

 Đảm bảo quyền con người

Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời (năm 1945) đến nay, một hệ thống đồ sộ các QCN đã được ghi nhận bởi pháp luật quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, việc ghi nhận các QCN trong pháp luật là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Điều kiện đủ là phải có các biện pháp để bảo vệ các quyền khỏi bị vi phạm, thúc đẩy sự tôn trọng và thực hiện các quyền trên thực tế. Giáo sư Saneh Chamarik, Chủ tịch Ủy ban QCN quốc gia Thái Lan, đã phát biểu: “Mọi quyền và tự do được ghi nhận trong Hiến pháp đều là vô nghĩa nếu người dân không có quyền lực thực thi chúng” [161, tr. 187]. QCN – giá trị chung của nhân loại, thành quả của cuộc đấu tranh gian khổ, bền bỉ của nhân loại, bởi lẽ nếu tính từ những nghiên cứu đầu tiên của các nhà tư tưởng cận đại (Crotius, Hobbes, Kant, Locke,…) về QCN thì lịch sử của việc quan tâm thừa nhận và tìm cách bảo vệ QCN đã kéo dài hàng trăm năm. Là một chủ đề nhân văn nhưng xét về mặt thực tiễn thì QCN là một vấn đề mang tính pháp lý và được nghiên cứu toàn diện trong các góc nhìn đa ngành luật học, xã hội học. Ở góc độ pháp lý, nếu coi QCN là các giá trị cơ bản tồn tại ở mỗi cá nhân và được mặc nhiên thừa nhận tại bất kỳ nhà nước nào thì khi nói tới QCN trong pháp luật, ta thường thấy nó tồn tại và được nghiên cứu theo hướng đảm bảo, bảo vệ QCN thông qua việc ban hành một hệ thống pháp luật, hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội.

Trong các tài liệu về QCN ở Việt Nam hiện nay, khái niệm ĐBQCN được tiếp cận nghiên cứu ở những phạm vi nội hàm rộng – hẹp khác nhau phụ thuộc vào từng quan điểm và từng học thuyết, bao gồm hai nội dung cơ bản, cụ thể: (i) những nguyên tắc, phương thức, cách thức, quy tắc, thủ tục… để thúc đẩy và ĐBQCN; (ii) các yếu tố, bộ phận… tham gia vào việc thúc đẩy và ĐBQCN. Theo quan niệm chung, “đảm bảo là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [86, tr. 175]. Theo một số tài liệu của Liên hợp quốc thì ĐBQCN hay được sử dụng để chỉ ra nghĩa vụ của các chủ thể có trách nhiệm trong việc bảo vệ và thúc đẩy các QCN. Trong Giáo trình cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Bảo đảm quyền con người là việc các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp về lập pháp, hành pháp, tư pháp, kinh tế, thể chế… để hiện thực hóa các nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động quản lý của nhà nước, trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia, dân tộc” [68, tr. 384]. Như vậy, ĐBQCN là việc tạo ra các điều kiện thuận lợi về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật văn hóa giáo dục để QCN được thực hiện, là quá trình ghi nhận, bảo vệ, thúc đẩy, tôn trọng QCN do cộng đồng thế giới, khu vực và các quốc gia tạo lập nên để thúc đẩy và thực hiện QCN trong thực tế cuộc sống. Từ đó, tác giả luận án cho rằng: Đảm bảo quyền con người là việc các chủ thể (cá nhân, nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội…) có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để hiện thực hóa các quyền con người trên cơ sở các nguyên tắc về quyền con người nhằm bảo vệ, tôn trọng và thúc đẩy thực thi các quyền của con người trong các hoạt động của mình, ngăn ngừa sự lạm dụng, vi phạm quyền con người từ phía các chủ thể khác.

Trong đó, các nguyên tắc về QCN bao gồm:

Thứ nhất, QCN chỉ được đảm bảo khi được ghi nhận bằng pháp luật. Thực vậy, mặc dù QCN mang tính chất nhân bản, thuộc về mỗi con người song để được thực thi trong đời sống thì QCN phải được pháp luật (với hệ thống từ Hiến pháp và các văn bản pháp luật) ghi nhận. Bởi chỉ có pháp luật và chỉ bằng pháp luật thì các QCN mới được chính thức hóa, được thừa nhận, bắt buộc thực hiện trong xã hội. Cũng chỉ bằng pháp luật, nhà nước mới có thể thiết lập các thiết chế, bộ máy đảm bảo thực thi các QCN, người dân mới có cơ sở để

đấu tranh đòi hỏi thực thi và bảo vệ quyền của mình. Ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 ghi nhận rất cụ thể nguyên tắc này: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Để thực hiện đúng nguyên tắc này, việc ghi nhận các QCN trong hệ thống pháp luật phải đảm bảo thống nhất, từ trên xuống dưới. Trường hợp văn bản cấp dưới không thống nhất với văn bản cấp trên là không ĐBQCN.

Thứ hai, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chính là cơ sở để ĐBQCN và việc hạn chế đó phải theo nguyên tắc do pháp luật quy định. Xuất phát từ quan điểm được chấp nhận rộng rãi là phần lớn các quyền con người mang tính tính tương đối [160, tr. 27] nên có thể bị giới hạn. Sự giới hạn quyền của chủ thể này cũng đồng thời là sự đảm bảo quyền của chủ thể khác. Thêm nữa, do QCN được ghi nhận bằng pháp luật nên việc giới hạn quyền cũng phải được ghi nhận bằng pháp luật và phải theo những nguyên tắc cụ thể nhằm tránh sự giới hạn quyền một cách tùy tiện của nhà làm luật (hay nói cách khác là nhằm hạn chế sự tùy tiện xâm phạm QCN từ phía nhà nước).

Tuyên ngôn nhân quyền thế giới đã quy định nguyên tắc này tại Điều 29 như sau: “Trong việc thực thi các quyền và tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng quyền và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ”. Tại Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp. Cụ thể là: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, chỉ có Quốc hội, bằng văn bản luật (và Bộ luật) mới có thể hạn chế QCN và việc hạn chế cũng chỉ xảy ra trong trường hợp cần thiết, vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,

đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Các tình huống khác, không đáp ứng yêu cầu về một trong các điều kiện: về chủ thể, về hình thức văn bản, về các trường hợp hạn chế quyền, đều vi phạm nguyên tắc hạn chế quyền, đồng nghĩa với việc không ĐBQCN, vi phạm Hiến pháp.

Thứ ba, việc thực hiện quyền phải được thực hiện đồng thời với nghĩa vụ không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích của người khác. Nguyên tắc này có thể được xem là một trong những nguyên tắc thể hiện quyền làm chủ của người dân. Thật vậy, việc đáp ứng các quyền của người dân cũng đồng nghĩa với việc thực hiện nghĩa vụ của nhà nước. Khi đó, trong quan hệ với nhà nước, với cộng đồng, người dân ở vào vị trí thụ hưởng quyền một cách bị động. Ở chiều ngược lại, khi người dân thực hiện nghĩa vụ là thực hiện phần trách nhiệm của mình với nhà nước, với cộng đồng. Khi đó, người dân chuyển từ thế bị động thụ hưởng sang chủ động đóng góp công sức, tiền của, giá trị… của mình với cộng đồng. Thông qua đó, có thể tạo dựng nên cơ sở thực hiện quyền cho những cá nhân khác. Đây là cách thể hiện vai trò làm chủ của cá nhân với cộng đồng. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ, một yêu cầu không thể thiếu là không xâm phạm tới lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích của người khác nhằm đảm bảo một cộng đồng ổn định, đồng thời, tôn trọng quyền và lợi ích của người khác. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 15 Hiến pháp 2013. Theo đó, Hiến pháp ghi nhận: “quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Như vậy, nguyên tắc này đặt ra đối với cả việc quy định QCN trong hệ thống pháp luật và việc thực hiện QCN trong thực tế. Trường hợp quy định pháp luật hoặc quá trình thực hiện không đảm bảo nguyên tắc này là không ĐBQCN, vi phạm quy định của Hiến pháp.

Thứ tư, QCN là bình đẳng đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này thể hiện sự không phân biệt trong quá trình thực hiện QCN, hoàn toàn phù hợp với bản chất QCN là quyền tự nhiên, vốn có của mỗi con người, không phân biệt màu da, dân tộc, tín ngưỡng… Nguyên tắc này đòi hỏi mọi quy định pháp luật về QCN phải đảm bảo thống nhất, không phân biệt đối xử, không có sự khác biệt giữa các vùng miền, giữa các dân tộc trong một quốc gia. Hiến pháp Việt Nam ghi nhận nguyên tắc này tại Điều 16 như sau: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Theo đó, các quy định pháp luật nói chung được áp dụng bình đẳng đối với mọi người trong xã hội, không phân biệt đối xử. Trường hợp giữa các quy định có sự khác nhau, thể hiện sự phân biệt là vi phạm QCN.

Căn cứ các nguyên tắc nên trên, quá trình thực hiện việc ĐBQCN là quá trình chủ thể có nghĩa vụ thực hiện việc bảo vệ, tôn trọng và thúc đẩy thực thi các QCN đã được Hiến pháp ghi nhận.

Chẳng hạn, Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước” [98, Điều 23]. Để hiện thực hóa quyền tự do đi lại trong quy định này, ở trong nước, nhà nước (là chủ thể có nghĩa vụ) phải tổ chức xây dựng đường sá hoặc rà phá bom mìn, phát hiện vùng nguy hiểm, chỉ dẫn, cảnh báo về những vùng, khu vực không được qua lại nhằm tạo ra những con đường, những vùng an toàn (là những điều kiện) để người dân có thể tự do đi lại (là quá trình thực hiện QCN). Đồng thời, khi người dân thực hiện quyền này thì cũng có trách nhiệm đóng góp với nhà nước để xây dựng những con đường mới, duy trì sự an toàn của những con đường cũ, bảo vệ môi trường bằng các loại phí, thuế… Nếu ai không thực hiện hoặc phá hoại đường sá thì sẽ phải chịu trách nhiệm tùy theo mức độ vi phạm hoặc có quyền lựa chọn không thực hiện quyền tự do đi lại. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân trong quá trình thực hiện quyền. Thêm nữa, quá trình đi lại là quá trình tham gia giao thông, các chủ thể phải đảm bảo an toàn cho mình, đồng thời đảm bảo an toàn cho những người tham gia giao thông khác bằng cách thực hiện quy định pháp luật về an toàn giao thông, không tùy tiện đi lại tự do, vô tổ chức. Trường hợp vi phạm, tùy từng mức độ mà phải bồi thường thiệt hại, chịu trách nhiệm hành chính hoặc bị xử lý hình sự. Đó là quá trình đảm bảo nguyên tắc mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác và nguyên tắc việc thực hiện QCN, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Đối với người muốn ra nước ngoài, để quản lý và đảm bảo an toàn, nhà nước thực hiện việc cấp hộ chiếu, cấp thẻ ra nước ngoài… đồng thời, hợp tác với nước ngoài để công dân có thể đến các nước an toàn và được bảo vệ. Nhà nước cũng ban hành pháp luật, thiết lập bộ máy cơ quan có thẩm quyền nhằm trừng trị những kẻ ra nước ngoài trái quy định (Điều 347 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, Tội vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh). Pháp luật cũng quy định những trường hợp hạn chế xuất cảnh vì lý do quốc phòng, an ninh, sức khỏe của cộng đồng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc việc thực hiện QCN, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nguyên tắc hạn chế QCN đã được Hiến pháp ghi nhận.

Quá trình nhà nước ban hành văn bản quy định về quyền tự do đi lại của người dân và các nghĩa vụ khi thực hiện quyền này (bao gồm quy định tại Hiến pháp và các văn bản pháp luật như: Luật Giao thông đường bộ, Luật Hàng không dân dụng, Luật Hàng hải, Luật Thuế,… cũng như các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các Luật này), quá trình xây dựng đường sá, rà phá bom mìn, hình thành các khu vực an toàn cho người dân đi lại là quá trình nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền tự do đi lại của người dân; quá trình duy tu đường sá, mở ra những con đường mới, có chính sách hỗ trợ, phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông,… là quá trình nhà nước bảo vệ, thúc đẩy thực hiện quyền tự do đi lại của người dân; quá trình các cơ quan nhà nước tổ chức đào tạo, cấp giấy phép lái xe, cấp hộ chiếu, visa, thẻ ra nước ngoài, xem xét, xử lý trách nhiệm của cơ quan, người vi phạm quy định pháp luật về an toàn giao thông, xử lý chủ thể ra nước ngoài trái phép,… là quá trình nhà nước bảo vệ quyền tự do đi lại của người dân.

Bất kỳ hành vi nào, trong ban hành VBQPPL hay thực hiện quy định pháp luật vi phạm các nguyên tắc về QCN, cản trở quá trình nhà nước tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do đi lại của người dân đều là những hành vi không ĐBQCN. Trong xây dựng và ban hành văn bản, những nội dung quy định vi phạm các nguyên tắc về QCN, vi phạm nội dung QCN là những quy định không ĐBQCN; tùy từng mức độ, những vi phạm này cản trở việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy thực thi QCN của các chủ thể.

MÃ ĐỀ TÀI 006

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *