Vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng chiếm một trong những vị trí quan trọng nhất trong kinh tế thế giới hiện đại. Mặc dù ngân hàng dưới hình thức này hay hình thức khác đã ra đời từ rất sớm, nhưng ngân hàng hiện đại mới có nguồn gốc gần đây. Peter Rose (2001) định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình thức tổ chức tài chính cung cấp một dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và cũng thể hiện nhiều chức năng nhất do với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo Heffernan (2005), ngân hàng hiện đại là một trong những kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp. Sự hiện diện của nó giúp ích rất nhiều cho hoạt động kinh tế và tiến bộ công nghiệp của một quốc gia. Thông qua hoạt động tín dụng thì NHTM tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng (Nguyễn Văn Tiến và cộng sự, 2014). NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. NHTM là trung gian nhận tiền gửi nên nợ phải trả của các ngân hàng được hình thành từ 2 nguồn: nguồn ngân hàng nhận tiền gửi của cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ, các tổ chức trong và ngoài nước và nguồn ngân hàng chủ động đi vay từ NHTW, các TCTD khác hay vay trực tiếp trên TTTC khi cần. Với cả 2 nguồn vốn này thì ngân hàng đều phải trả chi phí sử dụng vốn nhưng tỷ lệ và mục đích huy động khác nhau.
Vốn huy động qua tài khoản tiền gửi
Vốn huy động qua tài khoản tiền gửi là nguồn vốn vô cùng quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các NHTM. Bằng cách mở tài khoản tiền gửi và thanh toán cho khách hàng, ngân hàng có thể huy động tiền gửi từ nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước. So với các hình thức huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá hoặc đi vay NHTW và các định chế tài chính khác, hình thức huy động tiền gửi không cần phải tiến hành các thủ tục hành chính phức tạp mà vẫn huy động được số vốn lớn. Tuy nhiên nguồn vốn tiền gửi của NHTM rất nhạy cảm với các biến số kinh tế vĩ mô hay vi mô như lạm phát dự tính, lãi suất, tin đồn… Điều này làm cho các NHTM dễ rơi vào tình thế bị động từ việc huy động cho đến giải quyết trường hợp rút vốn ồ ạt. Cùng với xu hướng cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các NHTM, các TCTD, các NHTM đã đưa ra nhiều phương thức huy động khác nhau nhằm huy động được nguồn tiền gửi tối ưu nhất như:
– Tiền gửi thanh toán (Demand/Checkable deposits): là hình thức doanh nghiệp hoặc các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Đây là loại tiền gửi không kì hạn vì nó cho phép khách hàng có thể rút ra hoặc thanh toán qua hệ thống ngân hàng bất cứ lúc nào có nhu cầu trong phạm vi số dư tiền gửi. Để đạt được những lợi thế cạnh tranh, các ngân hàng thường đưa ra nhiều hình thức khác nhau thông qua mức lãi suất, miễn, giảm chi phí duy trì hay chuyển khoản hoặc tăng thêm tiện ích của sản phẩm tiền gửi thanh toán như tài khoản có thể phát séc, tài khoản NOW, ATS, MMDAs nhằm thu hút tiền gửi từ khách hàng.
Tài khoản séc (checking account) là dạng tài khoản tiền gửi thanh toán có khả năng phát séc phổ biến nhất.
Tài khoản NOW (Negotiable order of Withdrawal account – Lệnh rút tiền có thể chuyển nhượng) là một dạng tài khoản tiền gửi cho phép phát hành séc nhưng vẫn được hưởng lãi, đây là hình thức biến tướng của tài khoản séc nhằm “lách” luật các nước không cho phép trả lãi cho tài khoản séc.
Tài khoản ATS (ATS account – Automatic transfer system account) cho phép chủ tài khoản phát hành séc đồng thời có khả năng tự động chuyển tiền đến tài khoản này từ một tài khoản đang hưởng lãi như tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
MMDA (Money market deposit accounts – Tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ) cho phép chủ tài khoản có thể phát séc và số tiền gửi vào ngân hàng được đầu tư trên thị trường tiền tệ như mua các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ như thương phiếu, tín phiếu kho bạc…
– Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp (Time deposits): Do HĐKD của các doanh nghiệp mang tính chu kì nên ở lúc nào đó, doanh nghiệp có số tiền nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Xuất phát từ đặc điểm này, nhằm huy động được tiền gửi vào ngân hàng, các NHTM huy động tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp thông qua tài khoản tiền gửi có kì hạn với mức lãi suất cao hơn so với tài khoản tiền gửi thanh toán. Về nguyên tắc, người gửi tiền không được phép rút tiền ra trước thời hạn tiền gửi. Tuy nhiên, nhằm tăng tính cạnh tranh, các NHTM thường tạo điều kiện cho khách hàng rút tiền trước thời hạn nếu có nhu cầu nhưng phải báo trước hoặc phải chịu phạt một số tiền nếu số tiền rút ra tương đối lớn. Tại Việt Nam, hầu hết các NHTM đều không tính phí phạt trong trường hợp này.
– Tiền gửi tiết kiệm của dân cư (savings deposits): Có thể nói đây là nguồn tiền gửi huy động lớn nhất trong các loại tiền gửi của NHTM. Các NHTM thường đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút lượng tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư như tiết kiệm có lãi suất bậc thang, lãi trả đầu kì….
– Tiền gửi của các ngân hàng khác: Với tư cách làm ngân hàng đại lý cho các
NHTM khác, NHTM đại lý có thể nhận tiền gửi của ngân hàng ủy thác một số tiền nhất định để thực hiện thanh toán hộ cho ngân hàng ủy thác này.
Để đảm bảo tính thanh khoản cho các NHTM, hầu hết các quốc gia đều yêu cầu NHTM phải trích lập dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTW hoặc tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với tất cả các loại hình tiền gửi.
Vốn đi vay
Tiền gửi mà ngân hàng huy động được là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, NHTM có thể đi vay thêm. Nguồn vốn ngân hàng huy động được từ đi vay không phải trích lập dự trữ bắt buộc như các khoản tiền gửi ngân hàng huy động. NHTM có thể đi vay từ các nguồn sau:
– Vay từ NHTW
Trong trường hợp có nhu cầu vốn cấp bách, các NHTM có thể tìm đến NHTW xin vay vốn. Thông thường, NHTW cho các NHTM vay vốn dưới hình thức chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá với một mức lãi suất được gọi là lãi suất tái chiết khấu. Tại Việt Nam, NHNN cho các NHTM vay vốn theo các hình thức sau:
Chiết khấu hoặc tái chiết khấu giấy tờ có giá: là hình thức NHTW cho NHTM vay trên cơ sở mua lại các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của các NHTM. Mức lãi suất áp dụng để cho vay dưới hình thức này được gọi là lãi suất tái chiết khấu;
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng: Đây là trường hợp NHTW cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức nhất định;
Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá khác: NHTM vay vốn của NHTW kem theo tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá.
Nếu so sánh với những hình thức huy động vốn truyền thống và có tính chất thường xuyên như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn trên thị trường liên ngân hàng, thì hình thức vay vốn của NHTW có nhiều khó khăn và hạn chế hơn. Vì nhiệm vụ chính của NHTW là quản lý lưu thông tiền tệ, khi NHTW cho NHTM vay tiền sẽ ảnh hưởng đến cung tiền trong nền kinh tế.
– Vay vốn của các TCTD trong nước và TCTD nước ngoài: Là hình thức các NHTM vay mượn vốn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế. Có thể nói đây là nguồn vay vốn thuận tiện của các ngân hàng so với tiếp cận vốn vay từ NHTW vì các ngân hàng có thể trực tiếp liên lạc với nhau hoặc thông qua ngân hàng đại lý hoặc NHTW. Các khoản vay liên ngân hàng này có thể có đảm bảo bởi chứng khoán chính phủ hoặc không có đảm bảo tùy theo quan hệ giữa ngân hàng đi vay và ngân hàng cho vay.
– Vay trên TTTC: Các NHTM có thể huy động nguồn vốn kinh doanh thông
qua phương thức phát hành các giấy tờ có giá và bán trên TTTC (như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu…). Theo đó, TCTD bán ra các giấy nhận nợ cho những người mua là các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, theo quy định của NHNN. Việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn đầu tư cho HĐKD tiền tệ của các NHTM và chúng có thể được mua bán lại trên TTTC 2.2.1.3. Vốn chủ sở hữu (Capital)
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn được hình thành dựa trên sự đóng góp của các chủ sở hữu kể từ khi ngân hàng bắt đầu thành lập và ngay cả trong quá trình/ hoạt động nguồn vốn này cũng có thể được bổ sung thêm. Không giống với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn chủ sở hữu của NHTM thường chiếm tỷ trọng trên dưới 10% so với tổng nguồn vốn nhưng đặc biệt có ý nghĩa đối với HĐKD ngân hàng. Vốn chủ sở hữu ngân hàng chủ yếu gồm có:
– Vốn điều lệ: Vốn điều lệ được hình thành ngay từ khi ngân hàng mới thành lập và được ghi trong điều lệ hoạt động ngân hàng. Tùy theo tính chất của từng ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành từ NSNN nếu là NHTM Nhà nước, từ các cổ đông nếu là NHTM cổ phần…Trong quá trình hoạt động, vốn điều lệ của các NHTM thường được bổ sung thêm theo nhiều cách thức khác nhau như phát hành thêm cổ phiếu, hoặc được bổ sung từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ.
– Các quỹ của ngân hàng thương mại
NHTM có nhiều loại quỹ và chủ yếu được trích lập từ lợi nhuận của ngân hàng và mỗi quỹ có mục đích riêng như:
– Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ:
Hàng năm, các NHTM phải trích một tỷ lệ nhất định từ lợi nhuận sau thuế để bổ sung quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ thực có của ngân hàng. Ngoài ra, NHTM còn có thặng dư vốn: Là phần chênh lệch vốn cổ phần được xác định bởi chênh lệch giữa giá bán cổ phần và mệnh giá hoặc các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá theo QĐPL.
– Quỹ dự phòng tài chính:
Quỹ này được trích lập từ lợi nhuận nhằm bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí.
Các nhà quản trị ngân hàng cho rằng khoản dự phòng tổn thất phải được xem như một bộ phận của vốn chủ sở hữu bởi vì nó bù đắp sự thua lỗ. Theo QĐPL Việt Nam, sau khi trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các NHTM phải trích tỷ lệ 10% trên lợi nhuận ròng còn lại để lập quỹ dự phòng tài chính, mức tối đa của quỹ này không vượt quá 25% vốn điều lệ của ngân hàng
– Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ: Được trích lập từ lợi nhuận ròng và dùng để đầu tư mở rộng quy mô HĐKD và đổi mới công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm việc của TCTD. Đối với các NHTM Nhà nước, theo luật pháp Việt Nam, sau khi trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các ngân hàng này phải trích 50% lợi nhuận ròng còn lại để lập nên quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ.
– Quỹ phúc lợi, khen thưởng: Hai loại quỹ này được trích lập từ lợi nhuận của NHTM nhằm để thưởng cuối năm hoặc thưởng thường kỳ cho cán bộ, nhân viên trong ngân hàng hoặc để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ sung vốn xây dựng các công trình phúc lợi của ngân hàng….
– Lợi nhuận để lại: Hay còn gọi là lợi nhuận giữ lại phản ánh lợi nhuận phát sinh trong hoạt động ngân hàng chưa được phân chia cho cổ đông dưới dạng cổ tức và lập các quỹ theo QĐPL.
– Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Vốn ngân hàng không chỉ
giới hạn bởi số vốn đóng góp của các cổ đông. Từ những năm 1960, các ngân hàng trên thế giới đã được các cơ quan quản lý ngân hàng cho phép huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi, chứng khoán nợ được chuyển đổi thành vốn cổ phần. Nguồn vốn huy động này có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng do chúng cho phép ngân hàng sử dụng lâu dài phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
Tỷ lệ đòn bẩy tài chính ngân hàng thương mại
Khái niệm tỷ lệ đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại
Cấu trúc vốn của ngân hàng đề cập đến sự kết hợp giữa nợ và vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn. Các thước đo quan trọng cấu trúc vốn được sử dụng để chỉ ra tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu là tỷ lệ đòn bẩy tài chính của NHTM (Suntraruk và Xiaoxing, 2017). Có thể thấy rằng những thay đổi trong tỷ lệ đòn bẩy có liên quan đến lợi nhuận và rủi ro. Tỷ lệ đòn bẩy cao hơn trong cấu trúc vốn của ngân hàng có thể mang lại lợi nhuận cao hơn, nhưng nó có thể đồng thời làm tăng khả năng vỡ nợ của ngân hàng, đẩy mạnh phá sản hơn nữa, đặc biệt là trong thời điểm kinh doanh sa sút. Do đó, tỷ lệ đòn bẩy thích hợp có thể tăng lợi nhuận trong tầm kiểm soát của rủi ro (Brigham và Houston, 2011). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy cao luôn có kết quả không tốt. Rủi ro từ đòn bẩy có thể được bù đắp bằng cách đa dạng hóa thông qua mở rộng hoặc đầu tư dòng sản phẩm (Bodie và cộng sự, 2008).
Các ngân hàng thường có đòn bẩy cao do thực tế là chức năng cơ bản của họ là thu hút tiền gửi và sau đó cho vay. Với đặc điểm này, các ngân hàng có cơ hội cao hơn so với các doanh nghiệp phi ngân hàng khác trong việc gặp khó khăn về tài chính, đặc biệt là trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Bằng chứng cho thấy trong giai đoạn trước cuộc khủng hoảng 2000-2007, các ngân hàng ưu tiên vay nợ nhiều hơn. Do họ phụ thuộc nhiều vào các khoản nợ, các ngân hàng chịu nhiều tổn thất tín dụng hơn, gặp khó khăn tài chính và /hoặc phá sản trong cuộc khủng hoảng 2007-2009 (Acharya và cộng sự, 2011). Do đó, bằng chứng này củng cố tầm quan trọng của việc thực hiện xác định mức cấu trúc vốn tối ưu hay tỷ lệ đòn bẩy tài chính thích hợp.
Các tổ chức tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng đóng một vai trò năng động trong việc phân phối nguồn lực kinh tế của các quốc gia. Họ chuyển tiền từ người gửi tiền đến NĐT một cách liên tục. Các ngân hàng cần phải có lợi nhuận và lành mạnh về tài chính (Assfaw, 2019a). Vì vốn đóng vai trò quan trọng đối với lợi nhuận và sự tồn tại của ngân hàng, nên việc xác định nguồn vốn có thể hấp thụ rủi ro và làm cho ngân hàng duy trì khả năng cạnh tranh là một chức năng quan trọng của các nhà quản trị tài chính. Do đó, quá trình hoạch định chính sách liên quan đến sự lựa chọn tài chính của ngân hàng trên sự kết hợp giữa nợ và vốn chủ sở hữu có một ý nghĩa quan trọng trong quản trị ngân hàng và sự phát triển thành công trong tương lai của nó (Mokhova và Zinecker, 2014). Năng lực của ngân hàng trong việc thực hiện các nhu cầu của các bên liên quan có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu vốn của họ. Một quyết định về cơ cấu vốn tốt sẽ cho phép một doanh nghiệp công ty ngân hàng đi trước thành công trên con đường của mình và đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững. Do đó, các ngân hàng nên có tỷ lệ đòn bẩy tài chính tối ưu để tận dụng giá trị của công ty (Salawu, 2007).
Không có một phép đo duy nhất nào có thể được sử dụng làm đại diện cho cấu trúc vốn. Các nhà nghiên cứu đồng ý rằng các thước đo cấu trúc vốn nên thay đổi tùy theo mục đích phân tích. Brealey và Myers (1991) đã định nghĩa cấu trúc vốn là hỗn hợp của nợ, vốn cổ phần hoặc chứng khoán hỗn hợp do các doanh nghiệp phát hành. Hơn nữa, cấu trúc vốn cũng có thể được gọi là tổng nợ trên tổng tài sản theo giá trị sổ sách, trong đó có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro của công ty (Bos và Fetherston, 1993). Rajan và Zingales (1995) đề xuất tổng nợ trên tổng tỷ lệ tài sản là thước đo tỷ lệ đòn bẩy tài chính phù hợp nhất bởi vì và sớm cung cấp một dấu hiệu cảnh báo nguy cơ vỡ nợ tốt hơn và là một bức tranh chính xác hơn về các lựa chọn tài chính trong quá khứ. Hầu hết các nghiên cứu bao gồm cả nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng đều sử dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính đo lường cấu trúc vốn. Tỷ lệ đòn bẩy tài chính của NHTM được đo lường bằng tỷ lệ nợ trên tổng tài sản (Sheikh và Qureshi, 2017; Sritharan, 2014; Almutairi và Naser, 2015).
Ý nghĩa của tỷ lệ đòn bẩy tài chính ngân hàng thương mại
Các ngân hàng đương nhiên có tỷ lệ đòn bẩy cao hơn so với các công ty phi tài chính và quản lý chặt chẽ trong nền kinh tế (Ingves, 2014). Đó là lý do tại sao tỷ lệ đòn bẩy cao mà các ngân hàng sở hữu có liên quan mật thiết đến điều khiến ngân hàng trở nên đặc biệt hơn so với các ngành khác. Điều này là do các khoản nợ phải trả của các ngân hàng thường đến từ các khoản tiền gửi của người gửi tiền, trong đó người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào họ muốn. Loại tiền gửi này thường được gọi là tiền gửi không kỳ hạn. Ngược lại, các công ty phi tài chính không tham gia vào bất kỳ vấn đề tiền gửi nào vì bản chất các công ty cung cấp tiền để gửi vào ngân hàng. Trong khi đó, các loại nợ khác mà ngân hàng nắm giữ là các chứng khoán đảm bảo bằng tài sản đóng vai trò thế chấp trong việc thực hiện các giao dịch tài chính như giải ngân các danh mục cho vay. Điều này phù hợp với giả định trên khi các ngân hàng dường như đòn bẩy cao hơn so với các ngành khác (Berlin, 2011).
Theo Berlin (2011) hạng mục tài sản của ngân hàng thông thường có rủi ro cao hơn nợ phải trả, điều này là do các khoản cho vay – vốn là những tài sản tiềm ẩn rủi ro cao chiếm tỷ trọng chủ yếu trong danh mục tài sản. Mặc dù các ngân hàng đa dạng hóa danh mục cho vay đối mặt ít rủi ro hơn so với các khoản cho vay đơn lẻ nhưng các ngân hàng vẫn phải giám sát sau cho vay để đảm bảo lợi nhuận đáp ứng được chi phí huy động vốn.
Các quy luật thông thường về tài chính doanh nghiệp dường như không áp dụng cho các ngân hàng mà nguyên nhân chính là do các khoản tiền gửi của các ngân hàng được bảo hiểm. Trong trường hợp này, các nguồn vốn không được bảo hiểm như vốn chủ sở hữu có vẻ khá đắt. Hầu hết các ngân hàng không muốn tập trung vào vốn chủ sở hữu và thích vay nợ hơn. Vì bản thân cấu trúc vốn chỉ ra sự hỗn hợp giữa nợ và vốn chủ sở hữu, các ngân hàng chủ yếu dựa vào nợ như một hình thức tài trợ vì các ngân hàng cho rằng nợ an toàn hơn và rẻ hơn so với vốn chủ sở hữu (Juks, 2010).
Hơn nữa, lý do chọn nợ thay vì vốn chủ sở hữu vì lãi suất của nợ thường thấp hơn so với lợi nhuận yêu cầu trên vốn chủ sở hữu (Juks, 2010). Các ngân hàng về cơ bản nhận tiền gửi và trái phiếu và sau đó sẽ chuyển chúng thành tài chính hoặc đầu tư. Các giao dịch này liên quan đến lãi suất cố định cũng như cam kết hoàn vốn không hạn chế vào một thời hạn nhất định. Tuy nhiên, các nhà quản trị ngân hàng cho rằng việc tham gia đầu tư vào vốn cổ phần sẽ khiến họ phải chịu chi phí cao hơn, chẳng hạn như chi phí giám sát trong đó vốn chủ sở hữu có vẻ rủi ro và đòi hỏi tỷ suất sinh lợi cao hơn (Snyder, 2010). Lập luận này được Juks (2010) ủng hộ khi các chủ sở hữu vốn cổ phần yêu cầu tỷ suất sinh lợi cao hơn do bản thân điều kiện của khoản đầu tư được coi là rủi ro so với đầu tư nợ. Hơn thế nữa, ngành ngân hàng tin rằng khi họ tham gia với vốn chủ sở hữu đắt tiền sẽ phải chịu chi phí cao hơn cho họ, điều này sẽ tự động tác động đến người đi vay cũng như ngân hàng có thể chuyển chi phí cho người đi vay. Trong trường hợp này, các ngân hàng có thể lo lắng vì nó có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của họ vì họ tin rằng yêu cầu vốn chủ sở hữu tăng lên sẽ ảnh hưởng đến việc giảm tỷ suất sinh lời của các ngân hàng (Snyder, 2010).
Quy định về vốn và đòn bẩy tài chính của các ngân hàng thương mại theo tiêu chuẩn Basel và hệ thống xếp hạng CAMEL
Đối với tiêu chuẩn Basel
Phiên bản đầy đủ của Basel II đã được xuất bản vào năm 2006 chủ yếu là phản ứng trước những lời chỉ trích về Basel I và sự phát triển của ngân hàng trên toàn thế giới. Trái ngược với Basel I, Basel II được thành lập trên ba trụ cột với mỗi trụ cột tập trung vào một phân khúc cụ thể của hệ thống ngân hàng. Trụ cột một giải quyết các yêu cầu về vốn tối thiểu liên quan đến rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Điều này làm cho các yêu cầu về vốn tối thiểu phù hợp hơn với rủi ro tiềm ẩn thực tế của các ngân hàng. Trụ cột hai đề cập đến đánh giá giám sát và đảm bảo rằng các ngân hàng phát triển các thông lệ quản lý rủi ro lành mạnh. Điều này cho phép các cơ quan giám sát đánh giá tính hợp lý trong đánh giá của các ngân hàng về rủi ro của chính họ. trụ cột bathiết lập công bố thông tin cốt lõi của các ngân hàng để cải thiện kỷ luật thị trường. Do đó, trụ cột thứ ba này đã khuyến khích quản lý thận trọng và cung cấp một cơ chế theo đó thị trường có thể thưởng cho các ngân hàng được quản lý tốt và xử phạt các ngân hàng được quản lý kém.
Theo Danila (2012), Basel II là một bước tiến quan trọng trong quy định vốn nhạy cảm với rủi ro, tạo ra mối liên hệ rõ ràng và bền chặt giữa các quy tắc tính toán về tiêu chuẩn an toàn vốn, giám sát thị trường và kỷ luật thị trường. Mặc dù vậy, Basel II đã không đủ sức củng cố hệ thống ngân hàng để hệ thống này có thể đối phó với những thách thức của cuộc khủng hoảng tài chính. Thay vào đó , cuộc khủng hoảng tài chính đã làm nổi bật những thiếu sót của Basel II như thiếu các biến số vĩ mô, tính thuận chu kỳ, rủi ro thanh khoản được giải quyết không đúng cách và các vấn đề liên quan đến giao dịch. Quy tắc này cho phép phụ thuộc quá nhiều vào xếp hạng bên ngoài và các mô hình xếp hạng nội bộ không chính xácđể giảm các yêu cầu về vốn và giảm khả năng chống chọi với các cuộc khủng hoảng hệ thống của các ngân hàng.
vốn bao gồm nhiều phân ngành khác nhau và một tập hợp phức tạp các yêu cầu tối thiểu và tối đa. Basel III nhấn mạnh tầm quan trọng của thành phần và chất lượng vốn và do đó chia vốn cấp 1 thành hai loại: “Vốn chủ sở hữu chung Cấp 1 (CET1)” và “Vốn bổ sung cấp 1”. Định nghĩa mới nhấn mạnh nghiêm ngặt vào CET1 (bao gồm cổ phiếu phổ thông và lợi nhuận giữ lại) được coi là cơ sở vốn chất lượng cao, đặc biệt cần thiết trong các cuộc khủng hoảng. Basel III giới thiệu chặt chẽ hơn các yêu cầu để xác định vốn cấp 1 bổ sung để đảm bảo các công cụ này hấp thụ các khoản lỗ trên cơ sở hoạt động liên tục. Vốn cấp 2 tiếp tục cung cấp khả năng bù đắp tổn thất trên cơ sở “đã qua sử dụng” và chủ yếu bao gồm các khoản nợ thứ cấp. Tuy nhiên , nó đã bị giảm từ 3,5% trong Basel II xuống còn 2% trong Basel III. Vốn cấp 3 bị loại bỏ hoàn toàn theo định nghĩa mới.
Trước và trong cuộc khủng hoảng tài chính, nhiều ngân hàng có tỷ lệ vốn phù hợp nhưng lại xây dựng đòn bẩy quá mức. Đòn bẩy quá mức của các ngân hàng được nhiều người coi là một trong những yếu tố góp phần gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (FSB, 2009). Do đó, Ủy ban Basel đã đưa ra tỷ lệ đòn bẩy để bổ sung cho các yêu cầu về vốn tối thiểu . Tỷ lệ này đã được BCBS thêm vào để đáp lại những lời chỉ trích về sự phụ thuộc của các khuôn khổ trước đó vào các mô hình nội bộ của chính các ngân hàng trong việc thiết lập các yêu cầu về vốn. BIS (2011) lập luận rằng yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy sẽ giúp ngăn chặn việc tích lũy đòn bẩy quá mức trong hệ thống ngân hàng, như đã xảy ra trongcuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tỷ lệ này sẽ giúp ích cho các nỗ lực đánh cược các yêu cầu dựa trên rủi ro và cũng giúp giải quyết rủi ro mô hình. Tỷ lệ đòn bẩy đề xuất được tính toán bằng cách so sánh vốn cấp 1 với tổng tài sản có rủi ro (BIS , 2011).
Tỷ lệ đòn bẩy là thước đo vốn cấp 1 của ngân hàng dưới dạng phần trăm tài sản của ngân hàng (bao gồm cả các rủi ro ngoại bảng). Yêu cầu đã được đặt ở mức 3% và tính phù hợp của mức này cũng như các điều chỉnh cuối cùng đối với định nghĩa sẽ được đánh giá và hoàn thiện vào năm 2017. Tỷ lệ đòn bẩy, cùng với các
yêu cầu công bố thông tin đại chúng, được áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. BIS (2014) định nghĩa tổng rủi ro (mẫu số) của ngân hàng là: a) rủi ro trên bảng cân đối kế toán ; b) rủi ro phái sinh; c) giao dịch tài chính chứng khoán (SFT), bao gồm thỏa thuận mua lại, thỏa thuận mua lại đảo ngược và giao dịch cho vay ký quỹ ; và
d) các rủi ro ngoại bảng, chẳng hạn như cam kết, bảo lãnhvà thư tín dụng dự phòng. Các rủi ro ngoại bảng thường là nguồn đòn bẩy đáng kể và do đó BCBS đã hướng dẫn các ngân hàng đưa chúng vào mẫu số của tỷ lệ đòn bẩy. Theo D’Hulster (2009) một trong những lợi ích của tỷ lệ đòn bẩy là tính đơn giản của nó. Ông tuyên bố rằng nó có thể được áp dụng nhanh chóng, không gây ra chi phí lớn và không yêu cầu bất kỳ chuyên môn đáng kể nào từ các ngân hàng hoặc người giám sát của họ. Hơn nữa, tỷ lệ đòn bẩy có thể được áp dụng chế độ an toàn vốn trong bất kể khu vực tài chính nào.
Đề tài 016