Khái niệm, phân loại, đo lường năng lượng tái tạo
Khái niệm năng lượng tái tạo
Năng lượng tái tạo được tạo ra từ các nguồn năng lượng từ thiên nhiên hoặc từ các quy trình tự nhiên được hình thành liên tục hay nói cách khác năng lượng tái tạo là dòng năng lượng liên tục được bổ sung bởi các quá trình tự nhiên. Nguồn tự nhiên này bao gồm ánh sáng mặt trời, gió, thủy triều, địa nhiệt, và các dạng sinh khối khác. Các nguồn năng lượng này không bị cạn kiệt và không ngừng được tái sinh. Tuy nhiên, NLTT là một khái niệm khá rộng và có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau như:
Theo EIA, năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng từ các nguồn năng lượng được bổ sung một cách tự nhiên nhưng có giới hạn về dòng chảy; tài nguyên tái tạo hầu như không cạn kiệt theo thời gian nhưng bị giới hạn về sản lượng năng lượng trên một đơn vị thời gian [210].
Hay theo Cơ quan năng lượng tái tạo Úc, năng lượng tái tạo được sản xuất bằng việc sử dụng các nguồn năng lượng được thay thế liên tục và không bao giờ cạn kiệt [29].
Từ các phân tích trên, cho thấy khái niệm về NLTT có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên và không cạn kiệt theo thời gian. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án thì khái niệm năng lượng tái tạo
được sử dụng là khái niệm theo EIA đưa ra, do các số liệu phân tích liên quan đến các nguồn NLTT trong luận án được lấy từ EIA.
Phân loại năng lượng tái tạo
Theo EIA, các nguồn năng lượng tái tạo chính gồm có 4 nguồn năng lượng:
Gió: được sinh ra do mặt trời đốt nóng không đều bề mặt trái đất. Bởi vì bề mặt trái đất được tạo thành từ các loại đất và nước khác nhau, nên hấp thụ nhiệt của mặt trời với tốc độ khác nhau. Chính việc đốt nóng không đồng đều này là chu kỳ gió hàng ngày.
Mặt trời: Từ hàng ngàn năm nay, con người đã sử dụng tia nắng mặt trời (bức xạ mặt trời) để sưởi ấm và sấy khô các loại trái cây và ngũ cốc. Theo thời gian, con người đã phát triển công nghệ thu năng lượng mặt trời để làm tạo ra nhiệt và chuyển hóa thành điện năng.
Sinh khối: Sinh khối là nguồn nguyên liệu hữu cơ tái tạo có nguồn gốc từ thực vật và động vật, bao gồm gỗ và các cây trồng nông nghiệp, cây thân thảo, cây thân gỗ và các chất thải hữu cơ đô thị, phân bón. Sinh khối chứa năng lượng hóa học được lưu trữ từ mặt trời. Thực vật tạo ra sinh khối thông qua quá trình quang hợp. Sinh khối có thể được đốt trực tiếp để lấy nhiệt hoặc chuyển đổi thành nhiên liệu lỏng và khí có thể tái tạo thông qua các quá trình khác nhau.
Địa nhiệt: Năng lượng địa nhiệt là nhiệt bên trong trái đất. Từ địa nhiệt bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp geo (trái đất) và therme (nhiệt). Năng lượng địa nhiệt là một nguồn năng lượng tái tạo vì nhiệt liên tục được sản sinh bên trong trái đất. Con người sử dụng nhiệt địa nhiệt để tắm, sưởi ấm các tòa nhà và để tạo ra điện.
Thủy điện: được sinh ra từ chuyển động của nước. Vì nguồn năng lượng thủy điện là nước nên các nhà máy thủy điện thường nằm trên hoặc gần nguồn nước. Thể tích của dòng nước và sự thay đổi độ cao, thường được gọi là điểm đầu – từ điểm này đến điểm khác, xác định lượng năng lượng có sẵn trong nước chuyển động. Lưu lượng nước càng lớn và đầu nguồn càng cao thì nhà máy thủy điện càng sản xuất được nhiều điện.
Đo lường tiêu thụ năng lượng tái tạo
Sản lượng tiêu thụ năng lượng tái tạo được đo lường dựa trên tổng lượng tiêu thụ điện năng của các nguồn năng lượng gồm: gió, mặt trời, thủy điện nhỏ, địa nhiệt, sinh khối và được tính bằng đơn vị triệu tỷ BTU.
Vai trò của năng lượng tái tạo
Một trong những thách thức lớn nhất đối với thế giới trong thế kỷ 21 là đảm bảo nguồn cung năng lượng carbon thấp, giá cả phải chăng và an toàn. Dự báo về các nguồn NLSC như than đá, dầu mỏ, khí đốt sẽ cạn kiệt trong tương lai gần, nhu cầu về nguồn điện sạch và giá cả liên tục tăng khi các quốc gia tìm cách đáp ứng các mục tiêu giảm khí thải carbon, trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Điều này đã buộc các nước tập trung vào các nguồn năng lượng tái tạo. NLTT đã và đang từng bước đóng vai trò quan trọng trong tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng của các nước trên thế giới. Cụ thể, sử dụng NLTT đem lại những lợi ích sau:
- NLTT giúp chống lại biến đổi khí hậu, góp phần giảm phát thải khí nhà kính (KNK), bảo vệ môi trường, giảm thiểu biến đổi khí hậu, sự nóng lên của trái đất & phát thải khí CO2 … đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Theo báo cáo từ Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế trước năm 2050, hơn 90% các giải pháp trong nỗ lực khử carbon toàn cầu sẽ liên quan đến năng lượng tái tạo .
- Sử dụng NLTT phát triển kinh tế và tạo ra nhiều việc làm: Tạo thêm các nguồn điện ở quy mô tiện ích có thể kích thích tăng trưởng kinh tế và việc làm trong lĩnh vực lắp đặt và sản xuất. Báo cáo của IRENA, dự đoán rằng lĩnh vực năng lượng tái tạo có thể tạo ra hơn 40 triệu việc làm mới vào trước năm 2050 [103].
- Giảm phụ thuộc vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch, năng lượng nhập khẩu giúp tăng cường sử dụng các nguồn tài nguyên sẵn có nhằm đảm bảo tính ổn định, an ninh năng lượng.
- NLTT không gây ô nhiễm môi trường nên không ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Những ảnh hưởng môi trường của các nguồn năng lượng hóa thạch, thủy điện lớn và NLTT được thể hiện trong bảng
Tăng trưởng kinh tế
Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những khái niệm quan trọng trong kinh tế học, chỉ sự gia tăng quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Tăng trưởng kinh tế có thể được hiểu là việc tạo ra nhiều của cải hơn nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên có rất nhiều khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Theo Kuznets [108] “Tăng trưởng kinh tế là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng qui mô về mặt số lượng các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng”.
Theo quan điểm của Paul A. Samuelson, tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự gia tăng của sản lượng tiềm năng của một nước hoặc là sự gia tăng về GDP. Nói cách khác, là sự dịch chuyển ra phía ngoài của đường giới hạn khả năng sản xuất.
Theo Thirlwall [200] thì “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập bình quân hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.”
Theo Ngân hàng thế giới, tăng trưởng kinh tế là sự thay đổi đầu ra hoặc trong chi tiêu, hoặc trong thu nhập của người dân nước đó [219]. Theo quan điểm khác, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất tính bình quân trên đầu người dân trong một khoảng thời gian nhất định. Sản lượng này thường được đo bằng tổng sản phẩm quốc gia GNP hoặc tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Nhìn chung, quan điểm của các nhà khoa học về tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia (hoặc một địa phương). Chính vì vậy, khái niệm tăng trưởng kinh tế được dùng trong luận án là khái niệm theo quan điểm của Thirwall [200] nhưng được tính là tăng trưởng thực.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế được thể hiện khác nhau phụ thuộc vào các mô hình lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, hoặc do thời gian khác nhau. Tuy nhiên, nếu xem xét nền kinh tế trong dài hạn, có nghĩa là trong mối quan hệ của mở rộng năng lực sản xuất, tăng sản lượng tiềm năng thì tăng trưởng kinh tế tác động vào phía cung của nền kinh tế. Các nhà kinh tế học đưa ra bốn nhân tố chính ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế gồm:
- Vốn: là một yếu tố quan trọng để phát triển nền kinh tế. Quá trình hình thành vốn là quá trình tiết kiệm được chuyển thành đầu tư vào tư liệu sản xuất như nhà máy, thiết bị và máy móc nhằm tăng năng lực sản xuất của quốc gia và hiệu quả của người lao động. Hay nói cách khác, vốn được hình thành khi nền kinh tế không dành toàn bộ thu nhập để tiêu dùng hiện tại, mà tiết kiệm một phần và sử dụng tiết kiệm đó để sản xuất.
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên: Một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế là tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên bao gồm diện tích đất và chất lượng đất, rừng, hệ thống sông ngòi, tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ, năng lượng, khí hậu… Để tăng trưởng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên cần phải phong phú. Một quốc gia thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên có thể không có khả năng phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có phong phú là điều kiện cần để tăng trưởng kinh tế nhưng không phải là điều kiện đủ. Ở các nước kém phát triển, tài nguyên thiên nhiên không được sử dụng hoặc sử dụng chưa đúng cách sử dụng sai mục đích. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế kém. Tuy nhiên, các nước như Nhật Bản, Singapore … không được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào nhưng lại là một trong những quốc gia phát triển trên thế giới. Các quốc gia này đã cam kết bảo tồn các nguồn tài nguyên sẵn có, nỗ lực cao nhất để quản lý tài nguyên, giảm thiểu lãng phí tài nguyên…
- Nhân lực: Chất lượng dân số tốt là rất quan trọng trong việc xác định mức độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, việc đầu tư vào nguồn nhân lực dưới hình thức giáo dục, y tế và các chương trình xã hội khác là rất mong đợi. Phát triển nguồn nhân lực làm tăng kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người làm tăng năng suất của họ.
- Tiến bộ khoa học và kỹ thuật: là một yếu tố rất quan trọng trong việc xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật bao gồm nghiên cứu sử dụng các phương pháp sản xuất mới, tốt hơn hoặc cải tiến các phương pháp cũ. Tiến bộ KH&KT dẫn đến tăng năng suất, tăng khả năng sử dụng hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy tăng năng suất lao động, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm.
Đo lường tăng trưởng kinh tế
Đo lường tăng trưởng kinh tế theo 2 cách:
Cách 1: Đo lường tổng sản phẩm trong nước theo 3 phương pháp sau:
- Phương pháp sản xuất
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) = Tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của tất cả các ngành + Thuế sản phẩm – Trợ cấp sản phẩm
- Phương pháp thu nhập
Tổng sản phẩm trong nước = Thu nhập của người lao động từ sản xuất + Thuế sản xuất (đã giảm trừ phần trợ cấp sản xuất) + Khấu hao TSCĐ dùng trong sản xuất + Thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp.
- Phương pháp sử dụng (chi tiêu)
Tổng sản phẩm trong nước = Tiêu dùng cuối cùng + Tích lũy tài sản + Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Trong đó:
- Tiêu dùng cuối cùng là tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư và Nhà nước;
- Tích lũy tài sản ( tài sản cố định/ lưu động/hiếm);
- Chênh lệch xuất – nhập khẩu dịch vụ và hàng hóa.
Cách 2: Đo lường tổng sản phẩm trong nước theo bình quân đầu người GDP bình quân đầu người tại sẽ được xác định bởi lấy số liệu GDP của
quốc gia chia cho tổng dân số.
GDPRn là sản lượng thực tế của năm báo cáo kỳ nghiên cứu GDPRO là sản lượng thực tế của năm gốc kỳ nghiên cứu
Đánh giá tốc độ tăng trưởng thông qua chỉ tiêu GDPR hay GNPR sẽ thấy được quy mô của một nền kinh tế cũng như vị trí của nó trong nền kinh tế thế giới. Nếu dùng GDPR hay GNPR bình quân đầu người, sẽ đánh giá được sơ bộ khả năng hưởng thụ trung bình của người dân.
Phát thải CO2
Khái niệm phát thải CO2
Theo OECD, phát thải CO2 được hình thành từ việc đốt cháy dầu, than, các loại khí đốt tự nhiên và các vật liệu phế thải để tạo ra năng lượng [146].
Theo WB, lượng phát thải CO2 phần lớn là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất và sử dụng năng lượng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khí nhà kính. Lượng phát thải CO2 do con người tạo ra chủ yếu là do đốt nhiên liệu hóa thạch và sản xuất xi măng. Lượng phát thải CO2 bao gồm các loại khí từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch và sản xuất xi măng, nhưng không bao gồm lượng khí thải từ việc sử dụng đất như phá rừng. Nó bao gồm CO2 được tạo ra trong quá trình tiêu thụ nhiên liệu rắn, lỏng, khí và khí đốt [221].
Từ các khái niệm trên, có thể thấy rằng lượng phát thải CO2 được định nghĩa và được thu thập hay đo lường từ nhiều nguồn năng lượng khác nhau bằng các cách khác nhau, tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án sẽ sử dụng khái niệm của WB về phát thải CO2. Khái niệm theo WB sẽ tính toán lượng phát thải CO2 được tạo ra trực tiếp và dữ liệu trong phân tích của luận án được thu thập từ WB.
Tác động của CO2 đến con người và môi trường
Carbon dioxide không được coi là chất gây ô nhiễm không khí, vì nó xuất hiện tự nhiên trong không khí, tuy nhiên nồng độ phát thải CO2 nếu ở mức độ cho phép thì sẽ không gây ảnh hưởng đến môi trường, nhưng nếu hàm lượng khí CO2 tăng quá cao vượt mức quy định khiến nhiệt độ trung bình tiếp tục tăng, khí hậu của Trái đất sẽ nóng lên. Điều này gọi là hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ toàn cầu và dẫn đến một chuỗi các sự kiện phức tạp được gọi là biến đổi khí hậu toàn cầu. Biến đổi khí hậu toàn cầu không chỉ dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ chung mà còn làm thay đổi các kiểu thời tiết và khí hậu chung trên Trái đất, cụ thể ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước, thiếu hụt nước, cháy rừng tự phát do nhiệt độ trái đất nóng lên, nhiệt độ thay đổi không ổn định, hạn hán, băng tan, lũ lụt,… Tất cả những tác động này sẽ gây mất cân bằng hệ sinh thái, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người cụ thể như sau:
Các bệnh về hô hấp của con người
Phát thải CO2 ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người, gây ra nhiều biến chứng về đường hô hấp do sự gia tăng ô nhiễm không khí. Ngoài ra, phát thải cacbon giết chết một số loài động vật và phá hủy thức ăn, ảnh hưởng lớn đến con người, hay thời tiết thay đổi đang làm gia tăng bệnh tật, và các sự kiện thời tiết cực đoan làm tăng số ca tử vong và gây khó khăn cho hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Khí hậu thay đổi
Càng nhiều CO2 bị giữ lại trong khí quyển thì càng nhiều nhiệt bị giữ lại trong môi trường. Điều đó góp phần làm tăng nhiệt độ toàn cầu và ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu, gây ra các vụ như cháy rừng, bão nhiệt đới, sóng nhiệt và hạn hán nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất mùa màng và phá vỡ thói quen tự nhiên của động vật.
Những cơn bão mạnh đã trở nên dữ dội hơn và thường xuyên hơn ở nhiều khu vực. Khi nhiệt độ tăng, độ ẩm bốc hơi nhiều hơn, làm trầm trọng thêm lượng mưa và lũ lụt, gây ra nhiều cơn bão có sức tàn phá lớn hơn. Tần suất và mức độ của các cơn bão nhiệt đới cũng bị ảnh hưởng bởi sự nóng lên của đại dương. Lốc xoáy, bão ăn trên vùng nước ấm trên bề mặt đại dương. Những cơn bão như vậy thường phá hủy nhà cửa và cộng đồng, gây ra cái chết và thiệt hại kinh tế lớn.
Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi nguồn nước sẵn có, khiến nó gây nên hạn hán ở nhiều vùng hơn. Sự nóng lên toàn cầu làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu nước ở những khu vực vốn đã căng thẳng về nước và dẫn đến nguy cơ hạn hán nông nghiệp ảnh hưởng đến mùa màng và hạn hán sinh thái làm tăng tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh thái. Hạn hán cũng có thể khuấy động những cơn bão cát và bụi hủy diệt có thể di chuyển hàng tỷ tấn cát qua các lục địa. Các sa mạc đang mở rộng, thu hẹp diện tích đất để trồng trọt. Nhiều người hiện phải đối mặt với mối đe dọa không có đủ nước thường xuyên.
Đại dương hấp thụ phần lớn nhiệt từ sự nóng lên toàn cầu. Tốc độ ấm lên của đại dương đã tăng mạnh trong hai thập kỷ qua. Khi đại dương ấm lên, thể tích của nó tăng lên do nước nở ra khi nó ấm hơn. Các tảng băng tan chảy cũng khiến mực nước biển dâng cao, đe dọa các cộng đồng ven biển và hải đảo. Ngoài ra, đại dương hấp thụ carbon dioxide, giữ nó khỏi bầu khí quyển. Nhưng nhiều carbon dioxide làm cho đại dương có tính axit hơn, gây nguy hiểm cho sinh vật biển và các rạn san hô.
Thay đổi đời sống thực vật
Biến đổi khí hậu đặt ra những rủi ro đối với sự tồn tại của các loài trên đất liền và trong đại dương. Những rủi ro này tăng lên khi nhiệt độ tăng lên. Trở nên trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu, thế giới đang mất đi các loài với tốc độ gấp 1.000 lần so với bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử loài người được ghi lại. Một triệu loài có nguy cơ bị tuyệt chủng trong vòng vài thập kỷ tới. Cháy rừng, thời tiết khắc nghiệt và sâu bệnh xâm lấn là một trong nhiều mối đe dọa liên quan đến biến đổi khí hậu. Một số loài sẽ có thể di dời và tồn tại, nhưng những loài khác thì không.
Đo lường khí thải CO2
Đo lường khí thải CO2 được dựa trên hai cách:
- Tính tổng lượng phát thải CO2
- Tính lượng phát thải CO2 trên đầu người
Theo WB, tổng lượng khí thải carbon dioxide dựa trên sản xuất hàng năm, không bao gồm thay đổi sử dụng đất, được đo bằng tấn mỗi người. Lượng khí thải carbon dioxide được tính dựa trên tiêu thụ. Trong đó, lượng phát thải dựa trên tiêu thụ là lượng phát thải quốc gia hoặc khu vực đã được điều chỉnh cho thương mại (tức là lượng phát thải theo lãnh thổ/sản xuất trừ đi lượng khí thải trong xuất khẩu, cộng với lượng phát thải trong nhập khẩu). Nếu lượng khí thải dựa trên tiêu thụ của một quốc gia cao hơn lượng khí thải sản xuất thì quốc gia đó là nước nhập khẩu ròng carbon dioxide. Dữ liệu về lượng khí thải toàn cầu được Our World in Data chuyển đổi từ tấn carbon sang tấn carbon dioxide (CO₂) bằng cách sử dụng hệ số chuyển đổi là 3,664. [221].
MỐI QUAN HỆ GIỮA TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT THẢI CO2
Năng lượng là nguồn tài nguyên không thể thiếu để phát triển kinh tế và được chia thành hai loại: năng lượng tái tạo và năng lượng hóa thạch. Stern
[180] cho rằng nếu không hiểu tầm quan trọng vai trò của các nguồn năng lượng trong quá trình công nghiệp hóa, thì sẽ không thể hiểu mối liên hệ giữa năng lượng và tăng trưởng. Nghiên cứu phân tích tác động của năng lượng hóa thạch đối với phát triển kinh tế là rất đầy đủ và toàn diện. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng năng lượng hóa thạch truyền thống có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu của Ivanovski và cộng sự [95], Mohammadi và cộng sự [119], Lee [112], Narayan và cộng sự [131], Zafar và cộng sự [229]. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế không phải là mục tiêu duy nhất và việc sử dụng năng lượng hóa thạch đã gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng vì tính không bền vững và lượng phát thải cacbon đáng kể. Ngoài ra, các nguồn năng lượng tái tạo phổ biến và phong phú ở nhiều quốc gia vẫn chưa được sử dụng, trong khi nguồn năng lượng hóa thạch đang dần cạn kiệt và ô nhiễm môi trường tăng cao. Trong các tài liệu nghiên cứu, các nguồn năng lượng truyền thống đã thu hút được phần lớn sự chú ý, trong khi tài liệu về năng lượng tái tạo chỉ mới bắt đầu trong những thập kỷ gần đây do những lo ngại về biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Khi biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và nhận thức về bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao, tầm quan trọng của việc phát triển năng lượng tái tạo đã dần được quan tâm; đặc biệt trong những năm gần đây, việc tiêu thụ năng lượng tái tạo đã được chú ý đáng kể (Wang, [214]). Với sự gia tăng mức tiêu thụ này, nhiều nhà nghiên cứu đã bắt đầu nghiên cứu về năng lượng tái tạo (Wang, [215]), đặc biệt tập trung vào mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế và phát thải CO2.Mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo với tăng trưởng kinh tế
Trong phần tổng quan, có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về hướng tác động của mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế, đó là liệu tiêu thụ năng lượng tái tạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng sản lượng tiêu thụ năng lượng tái tạo hay có tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hai bên. Một lượng lớn dữ liệu nghiên cứu nước ngoài cho thấy, với các quốc gia khác nhau được lựa chọn và các phương pháp kiểm tra khác nhau, cũng như dữ liệu và khoảng thời gian thực hành, các kết luận sẽ khác nhau. Các nghiên cứu về quan hệ nhân quả giữa tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế đã trở nên phổ biến hơn kể từ sau nghiên cứu của Kraft và Kraft [109], nghiên cứu này kiểm tra mối quan hệ giữa các biến này đối với Hoa Kỳ. Tổng kết những nghiên cứu trước kia, luận án xây dựng khung lý thuyết về điều kiện xảy ra mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế theo bốn dạng giả thuyết trong các nghiên cứu thực nghiệm:
Giả thuyết tăng trưởng kinh tế: Giả thuyết này cho rằng tiêu thụ năng lượng tái tạo có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong quá trình sản xuất. Điều này có nghĩa là tiêu thụ năng lượng tái tạo sẽ khuyến khích tăng trưởng kinh tế, hay tiêu thụ năng lượng tái tạo sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giả thuyết tăng trưởng lập luận rằng tiêu thụ năng lượng tái tạo có mối quan hệ nhân quả một chiều đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Giả thuyết tăng trưởng cho rằng tiêu thụ năng lượng tái tạo đóng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế cả trực tiếp và gián tiếp trong quá trình sản xuất với nguồn bổ sung lao động và vốn. Do đó, có thể kết luận rằng năng lượng tái tạo là một yếu tố hạn chế đối với tăng trưởng kinh tế và do đó, những cú sốc đối với nguồn cung năng lượng sẽ có tác động tiêu cực hay tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Để lý giải cho mối quan hệ này, đầu tiên quan điểm của các nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng yếu tố then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đương đại nằm ở tiến bộ công nghệ và các yếu tố đầu vào khác không thể thay thế vai trò quan trọng của năng lượng trong quá trình sản xuất (Stern, 1993, 2011) [159,161]. Ngoài ra, lý thuyết của Domar cũng cho rằng công nghệ là yếu tố trực tiếp liên quan đến năng lượng, vì nếu không có năng lượng cung cấp thì những công nghệ này là không còn hữu ích. Alam [20] cũng cho rằng năng lượng là một yếu tố sản xuất, ông cho rằng năng lượng thúc đẩy quá trình chuyển đổi nguyên liệu thô thành thành phẩm trong sản xuất. Belloumi [52] cho rằng năng lượng là nguồn giá trị chính vì các yếu tố sản xuất khác như lao động và vốn không thể hoạt động nếu không có năng lượng.
Đầu tiên, lý thuyết tăng trưởng Solow [193], hay còn được gọi là lý thuyết ngoại sinh, vì nó cho rằng công nghệ là yếu tố ngoại sinh quyết định tăng trưởng. Lý thuyết cho rằng sản lượng được quyết định bởi hai nhân tố chính là vốn và lao động, được biểu diễn dưới dạng hàm Cobb-Douglass như sau: Y = F (K, L) hoặc Y = A. Kα .Lβ, trong đó A chính là yếu tố năng suất tổng hợp bao gồm cả tiến bộ công nghệ, nên lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh này chưa hoàn toàn chỉ ra được mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, lý thuyết tăng trưởng nội sinh được phát triển để giải quyết những sai sót của lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển (ngoại sinh). Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Romar lần đầu tiên được trình bày vào năm 1986, trong đó lý thuyết này cho rằng tiến bộ công nghệ là đầu vào của hàm sản xuất hay nói cách khác, lý thuyết này cho rằng tiến bộ công nghệ là yếu tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết nhằm mục đích giải thích tăng trưởng dài hạn bằng tăng trưởng năng suất nội sinh hoặc tiến bộ kỹ thuật. Để lý giải cho mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế, các nhà nghiên cứu thường sử dụng lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh của Romer [165]. Theo lý thuyết này, công nghệ mới là yếu tố quyết định cuối cùng cho sự tăng trưởng dài hạn và bản thân nó được xác định bằng việc đầu tư vào nghiên cứu công nghệ. Do đó, Romar coi đầu tư vào công nghệ nghiên cứu là yếu tố nội sinh trong việc tiếp nhận các công nghệ mới để tối đa hóa lợi nhuận.
MÃ ĐỀ TÀI 010