Các nội dung thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp

Trên cơ sở tổng quan từ các công trình nghiên cứu trước đây (các hướng nghiên cứu) và từ các lý thuyết nền tảng liên quan đến thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp trên phạm vi quốc gia. Thêm vào đó, nghiên cứu tập trung việc xem xét và đánh giá trên góc độ vĩ mô, dưới góc nhìn của các nhà quản lý, cơ quan quản lý Nhà nước. Từ đó hình thành các nội dung thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp trên phạm vi quốc gia, cụ thể các nội dung bao gồm:

Xây dựng và ban hành các chính sách thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp

Chính sách thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp là các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ giúp các DNKN vượt qua những khó khăn, tìm kiếm công việc và tự tạo công việc [185]. Các quốc gia hoàn thiện dần chính sách khởi nghiệp đảm bảo khuyến khích tinh thần khởi nghiệp trước các hoạt động khởi nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp khi bắt đầu khởi nghiệp: hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính, các biện pháp ưu đãi, bảo hộ cho các DNKN…[153]

Với việc áp dụng các chính sách thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp sẽ giúp cải thiện môi trường đầu tư, chuẩn hóa các nền tảng khởi nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp, tạo cơ hội tốt cho những người có ý tưởng và thực hiện khởi nghiệp [186]. Điều này sẽ đẩy mạnh hoạt động khởi nghiệp, các chính sách hỗ trợ càng mạnh thì những người có ý tưởng càng sẵn sàng thực hiện ý tưởng vì giảm được các rủi ro và không chắc chắn. Nó sẽ thúc đẩy sự hình thành các DNKN để bắt đầu kinh doanh, tăng sự sẵn sàng kinh doanh của họ. [184]

Trong các giai đoạn khác nhau thì cũng cần chính sách khác nhau để phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy, các chính sách cần điều chỉnh, cũng như ban hành các chính sách cải cách thường xuyên.

Hỗ trợ phát triển các ý tưởng khởi nghiệp

Các cá nhân hiếm khi nhận thấy được đầy đủ cơ hội kinh doanh mà cần có sự kết hợp các nguồn lực, sự sẵn sàng vượt qua những khó khăn. Đối với cá nhân đang tìm cách xác định hoặc tạo ra cơ hội kinh doanh mới thì ban đầu có một ý tưởng và nhiều điều không chắc chắn [97] [142]. Cho đến khi một số hành động được thực hiện để phát triển hơn ý tưởng và giảm bớt những vấn đề không chắc chắn. Theo thời gian, ý tưởng có thể được phát triển và cải tiến thành một cơ hội được khai thác. Nếu một ý tưởng không được phát triển, nó sẽ không bao giờ trở thành một cơ hội tốt. Tuy nhiên, không có ý tưởng thì không bao giờ có cợ hội [162]. Ý tưởng khởi nghiệp được bắt đầu với một ý tưởng, tiếp theo là mong muốn giảm bớt sự không chắc chắn, tiếp theo là các hành động tìm kiếm thông tin, diễn giải và có thể điều chỉnh ý tưởng. Chính vì vậy, các quốc gia thường có những hỗ trợ ngay từ ban đầu trong việc phát triển các ý tưởng khởi nghiệp. [97]

Để xác định ý tưởng có thành công hay công thì cần rất nhiều thông tin như: tình hình thay đổi công nghệ, thị trường, môi trường xã hội, các quy định pháp luật [98][158]. Ngoài việc nhạy bén trong kinh doanh do kiến thức chuyên môn, do được giáo dục bài bản thì các cá nhân cần phải tiếp xúc, truy cập nhiều thông tin trong môi trường bên ngoài, từ đó có những góc nhìn được chính xác về ý tưởng khởi nghiệp đó. Để có thể nuôi dưỡng ý tưởng khởi nghiệp ngay từ ban đầu, một số quốc gia đã thành lập các trung tâm cung cấp các thông tin cần thiết, hỗ trợ về pháp luật, hỗ trợ công nghệ, hướng dẫn tư duy kinh doanh, mở các lớp đào tạo về chuyên môn… Đây là cơ hội tốt để các cá nhân có ý tưởng kinh doanh có thể đánh giá chính xác, cũng nhưng có những trao đổi cần thiết đối với các chuyên gia trong lĩnh vực mình đang có ý tưởng [105] [117]. Sau khi có được các thông tin cần thiết, những cá nhân sẽ xây dựng mô hình kinh doanh, tính toán các yếu tố đầu vào, yếu tố đầu ra cho các sản phẩm của mình. Trong giai đầu, những người có ý tưởng gặp nhiều vấn đề khó khăn cần được giúp đỡ như vốn, kinh nghiệm, tư duy và thậm chí là ý trí vượt qua khó khăn. Với sự giúp đỡ của cộng đồng, sự ủng hộ của người thân và xã hội, các hội, các tổ chức phi lợi nhuận, các nhà đầu tư thiên thần… Để làm được điều này cần có sự giúp đỡ của nhiều đối tượng mà trong đó chính quyền các quốc gia sẽ là đầu mối liên kết các hỗ trợ này.

Xây dựng và liên kết các tổ chức trong hệ sinh thái khởi nghiệp

Hệ sinh thái khởi nghiệp được xem như cách thức một quốc gia hay một thành phố thiết lập để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp tại địa phương [119]. Trong hệ sinh thái khởi nghiệp là mạng lưới tương tác giữa mọi người, tổ chức và môi trường trong một cộng đồng, đó là các tổ chức hỗ trợ, công ty lớn, trường đại học, tổ chức tài trợ, nhà cung cấp dịch vụ, tổ chức nghiên cứu. Các tổ chức này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và mỗi nhóm sẽ tập trung vào các phần cụ thể trong hệ sinh thái và các giai đoạn của khởi nghiệp.

Vai trò của các tổ chức nghiên cứu và trường đại học là rất quan trọng, tác động đến ý tưởng trong giai đoạn đầu của các công ty khởi nghiệp và cũng là nơi hỗ trợ kỹ thuật và kinh doanh giúp thực hiện các ý tưởng [75]. Các tổ chức này cung cấp cơ sở hạ tầng giúp thực hiện các thử nghiệm, áp dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn. Sự hỗ trợ này được thực hiện từ giai đoạn ươm tạo đến giai đoạn tăng tốc. Với các cố vấn về khoa học, công nghệ, tri thức… sẽ giúp các DNKN vượt qua được các rào cản nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển.

Cũng theo Basso và cộng sự [75] cũng đã chỉ ra sự cần thiết các công ty lớn vì nó cho phép phát triển giải pháp, cố vấn, hỗ trợ tài chính, áp dụng công nghệ và phân phối sản phẩm mà các DNKN có thể tiếp cận.

Các nhà cung cấp dịch vụ sẽ hỗ trợ công khai hoặc hỗ trợ riêng cho các DNKN và có thể được tính phí hoặc miễn phí. Sự tồn tại của các nhà cung cấp dịch vụ không chỉ để hỗ trợ mà còn là cầu nối giữa DNKN với các nhà đầu tư, các vườn ươm, ngân hàng hoặc các trường đại học. Các nhà cung cấp dịch vụ với sự hỗ trợ đa dạng trong các giai đoạn khác nhau của DNKN. Tại đây doanh nghiệp sẽ thấy được sự hỗ trợ về mọi thứ, từ tài chính đến hoạch định chiến lược, dịch vụ pháp lý, bán hàng và thiết kế. Các tổ chức này cùng với các tổ chức hỗ trợ sẽ giúp quá trình hình thành và phát triển của DNKN thuận lợi hơn.

Theo Basso và cộng sự [75] đã cho rằng có 04 quỹ tổ chức hỗ trợ cho các DNKN: ngân hàng và tổ chức tài chính, vườn ươm và tăng tốc khởi nghiệp, nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm. Các ngân hàng và tổ chức tài chính hỗ trợ các DNKN bằng cách cho vay và các chương trình hỗ trợ. Ngoài ra, tài chính thay thế (AltFI) đang ngày càng phổ biến, bao gồm cho vay ngang hàng, cho vay cá nhân hoặc doanh nghiệp vay hoặc nguồn vốn được huy động từ cộng đồng, gây quỹ thông qua nhiều người,…

Các tổ chức có những chức năng nhất định, vì vậy cần có sự hợp tác và phối hợp ở mức độ cao nhằm tận dụng tối đa lợi thế tương đối. Với những mối liên hệ giữa các tổ chức sẽ giúp chia sẻ nguồn lực, góp phần giảm sự chồng chéo giữa các nguồn lực hỗ trợ DNKN. Do vậy, cần xây dựng mạng lưới liên kết thông qua các bản cam kết hợp tác giữa các tổ chức, giữa tổ chức với DNKN [105] [117]. Chính phủ có vai trò rất quan trọng trong việc điều phối mối quan hệ này, xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế chính sách phối hợp giữa các bên. Trong đó, DNKN là đối tượng trung tâm để kết nối với các tổ chức hỗ trợ [98] [158]. Các chương trình kết nối có những hình thức khác nhau và bao gồm một hoặc một số thành phần khác nhau như nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách, nhà cung cấp dịch vụ, DNKN… đồng thời tạo điều kiện cho các bên tiếp cận nguồn lực.

Đối với các trường đại học, đây là nơi chuyển ý tưởng khởi nghiệp từ lý thuyết thành thực tế, các DNKN sẽ thực hiện điều này. Do vậy, các doanh nhân sẽ xây dựng một mạng lưới với các thành viên để giảm bớt các rào cản đối với thông tin và chia sẻ lời khuyên của các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau [178]. Chính phủ có thể xây dựng các chương trình cho phép sự phối hợp các tổ chức hàng đầu tham gia tìm kiếm các DNKN tiềm năng. Các DNKN sẽ nhận được hướng dẫn chuyên môn, kết nối DNKN với các tổ chức khác để có được những hỗ trợ cần thiết trong các giai đoạn khác nhau. Với lợi thế là những người đi trước, hiểu được DNKN cần những hỗ trợ gì, các tổ chức sẽ dẫn dắt tới con đường thành công.

Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp

Chính phủ hỗ trợ các DNKN dựa trên những khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải. Đầu tiên họ phải đối mặt với các rủi ro trong đầu tư, công nghệ mới được áp dụng, nguồn vốn còn ít, khối lượng hàng hóa và dịch vụ bán ra còn ít, đối tác thương mại không nhiều [155]. Sự hỗ trợ của chính phủ có thể làm giảm những bớt những bất lợi mà các doanh nghiệp gặp phải, do đó làm tăng tính năng động của thị trường, ngăn ngừa thất bại thị trường do độc quyền [178]. Chính sách hỗ trợ được tập trung vào giai đoạn tăng trưởng và tạo ra hệ sinh thái khởi nghiệp, khuyến khích tinh thần kinh doanh. Theo Wilson [181] đã phân loại các giai đoạn phát triển kinh doanh bao gồm: giai đoạn khởi động, giai đoạn tăng trưởng ban đầu và giai đoạn mở rộng. Hầu hết các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp tập trung vào giai đoạn khởi động, trọng tâm của chính sách dựa trên hệ sinh thái khởi nghiệp đó là xây dựng môi trường thúc đẩy khởi nghiệp nhằm phát triển kinh tế của quốc gia. Theo nghiên cứu Isenberg [119] cho rằng yếu tố chính trong hệ sinh thái khởi nghiệp bao gồm văn hóa khởi nghiệp, chính sách đổi mới, khả năng lãnh đạo, khả năng tiếp cận nguồn vốn, nguồn lực chất lượng cao, thị trường và các biện pháp hỗ trợ. Trên thực tế, các chính sách hỗ trợ dựa trên hệ sinh thái khởi nghiệp là yếu tố bắt buộc để khởi nghiệp thành công. Các chính sách này bao gồm các biện pháp nhắm đến mục tiêu giáo dục khởi nghiệp, ươm tạo doanh nghiệp, phát triển công nghệ, tài trợ chính sách, thâm nhập nước ngoài và hệ thống pháp luật.

Storey [168] đã phân loại chính sách hỗ trợ DNKN của các quốc gia thành 02 loại “Mục tiêu” và “Khu vực”. Các chính sách mục tiêu tập trung vào nhóm đối tượng thiểu số như phụ nữ, người bản địa, người khuyết tật, thanh niên, người làm nghề tự do và lao động tự do. Đối với chính sách “Khu vực” có liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp theo khu vực. Do đó, các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp của chính phủ có thể điều chỉnh theo từng đối tượng và đối tượng thụ hưởng.

Các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp có thể được xây dựng theo mục tiêu hướng đến, bao gồm: hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp, trọn gói hoặc liên kết, chọn lọc hoặc tập trung nhưng phải đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả. [100]

Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp có khả năng can thiệp vào mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo và hiệu quả tài chính của các DNKN vì khả năng đổi mới sáng tạo sẽ thay đổi tùy thuộc vào phương tiện, mục tiêu và phương thức hỗ trợ của chính phủ. Như vậy, chính sách hỗ trợ của chính phủ như một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến mối quan hệ giữa sáng tạo khởi nghiệp và hiệu quả tài chính.

Xây dựng môi trường khởi nghiệp tích cực là một yếu tố quan trọng để nâng cao và duy trì khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia nói chung và các DNKN nói riêng. Hỗ trợ vốn là một trong những thành tố chính để các DNKN đổi mới công nghệ, tạo việc làm và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm đến tinh thần khởi nghiệp và hỗ trợ vốn [152]. Bonini và Capizzi [81] đã cho rằng hỗ trợ vốn là đồng nghĩa với đổi mới công nghệ, đầu tư mạo hiểm và tài trợ vốn cho các DNKN. Các DNKN thường gặp rào cản rất lớn đó là thiếu vốn, rất khó để có được một kế hoạch tài chính đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Khan và cộng sự [122] cũng cho rằng DNKN rất thiếu khả năng tiếp cận vốn, cần phải có sự hỗ trợ tích cực từ phía Chính phủ.

Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các hỗ trợ tài chính cho các DNKN. Các chính sách hỗ trợ tài chính bao gồm cho vay, tài trợ, nghiên cứu và phát triển, ưu đãi thuế, tài chính, đầu tư mạo hiểm [102]. Chính sách công tập trung vào loại bỏ những trở ngại cho sự sáng tạo và khởi tạo doanh nghiệp mới. Cụ thể, các chính sách của chính phủ cần tạo cơ hội để hỗ trợ phát triển về công nghệ cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, chính phủ đóng vai trò hàng đầu trong việc cung cấp các chương trình tài chính thúc đẩy năng lực khởi nghiệp của mỗi quốc gia [81]. Các chính sách này sẽ giúp tăng khả năng tiếp cận vốn của các DNKN, tăng hiệu quả sử dụng vốn thông qua các điều kiện hợp đồng tín dụng, từ đó nâng cao khả năng quản lý sử dụng vốn của các DNKN, giúp DNKN tồn tại và phát triển. Để sử dụng chính sách này có hiệu quả thì cần phải xác định, thẩm định đúng đối tượng hỗ trợ tài chính, các tổ chức, ban ngành được giao nhiệm vụ hỗ trợ tài chính cần giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn, đảm bảo các khoản tài chính được sử dụng hiệu quả và đúng mục đích. [102]

Busenitz và cộng sự [84] cho rằng kiến thức và kỹ năng mà người dân ở một quốc gia có liên quan đến việc thành lập và điều hành một doanh nghiệp mới. Theo nghiên cứu của GEM [107] đã chỉ ra rằng giáo dục và đào tạo về hoạt động khởi nghiệp được coi như một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nhận thức cơ hội khởi nghiệp của doanh nhân. Khi phân tích tác động của tuyên truyền, giáo dục và đào tạo đối với hoạt động khởi nghiệp của một quốc gia, Verheul và cộng sự [177] chỉ rõ sự khác nhau giữa giáo dục chung và giáo dục khởi nghiệp. Cũng theo quan điểm này, Busenitz và cộng sự [84] đã chia hai loại hình giáo dục đó là: giáo dục phổ thông, giáo dục và đào tạo về khởi nghiệp. Đối với các nước phát triển có tỷ lệ kinh doanh thành công cao hơn vì có trình độ giáo dục phổ thông cao hơn [133]. Bên cạnh đó, Eisemann và cộng sự [101] đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa cấp học cao hơn và hoạt động kinh doanh khởi nghiệp giữa các quốc gia. Giáo dục phổ thông không chỉ góp phần mở rộng tầm nhìn kiến thức giúp cá nhân nhận thức rõ hơn về các cơ hội tiềm năng trên thị trường mà còn cung cấp những kiến thức cần thiết về sự linh hoạt để tận dụng cơ hội này. Paco và cộng sự [151] đã nhận định rằng (1) giáo dục là điều kiện cần để cung cấp cho các nhà khởi nghiệp tương lai ý thức độc lập, tự chủ và tự tin, (2) làm cho mọi người nhận thức được các lựa chọn nghề thay thế, (3) mở rộng tầm nhìn của mọi người làm cho họ có nhiều khả năng nhận thức các cơ hội thị trường tiềm năng, (4) cung cấp kiến thức có thể được sử dụng bởi các cá nhân để phát triển các cơ hội kinh doanh mới.

Bên cạnh đó, Verheul và cộng sự [177] đã cho rằng giáo dục và đào tạo sẽ giúp cho quá trình khởi nghiệp đạt hiệu quả hơn vì các doanh nhân được cung cấp kỹ năng và kiến thức kinh doanh, điều này ảnh hưởng lớn đến thái độ doanh nhân. Trong nghiên cứu của GEM [107] đã phân chia giáo dục thành giáo dục tiểu học, trung học và đại học, xem xét các cấp độ học tập tác động đến cơ hội khởi nghiệp. Paco và cộng sự [151] cũng đã cho rằng giáo dục là yếu tố rất quan trọng tạo ra ý định khởi nghiệp, giáo dục và đào tạo sẽ làm thay đổi và kích thích thái độ cá nhân, cung cấp các kiến thức kỹ thuật về kinh doanh.

Hoạt động kiểm tra, giám sát công tác hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp

Trong quá trình áp dụng các chính sách, các quy định pháp luật của nhà nước đối với DNKN thì có nhiều cá nhân, tổ chức đã có hành vi làm dụng chức vụ, tín nhiệm để tư lợi, gây hậu quả đối với nền kinh tế xã hội. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý thực hiện giám sát và kiểm soát các hoạt động kinh tế của các DNKN. Các hành vi trục lợi, đó là hành vi tiếp cận quyền tài sản không đúng quy định đã có những tính toán, tổ chức và thường được thực hiện tại những nơi tính minh bạch hạn chế và không có tính cạnh tranh cao. Krueger [125] đã đưa ra thuật ngữ “tìm kiếm đặc lợi” để mô tả các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm tiếp cận các khoản tiền không đúng quy định pháp luật.

Nhiều nghiên cứu phân tích hậu quả tiêu cực của tham nhũng trong hành chính và quản lý nhà nước đối với DNKN như: Argandona [68]; Krylova [128]; Lambsdorff [130] đã chứng minh rằng các hành động tham nhũng tại các cơ quan quản lý là nguyên nhân tạo ra các rào cản hành chính đối với hoạt động của các DNKN. Trong nghiên cứu của Degtiarev và Malikov [96] cho rằng các rào cản hành chính là những trở ngại đối với việc bắt đầu kinh doanh do việc áp dụng các thủ tục và quy tắc quan liêu quá mức do các cơ quan quản lý đưa ra. Các nghiên cứu này cũng chỉ ra sự cần thiết đưa ra các chính sách nhằm cải thiện môi trường pháp lý, giảm bớt các rào cản hành chính, tăng cường giám sát thực hiện các cán bộ nhà nước. [145]

Bên cạnh các nghiên cứu tham nhũng từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, đã có nhiều nghiên cứu tham nhũng từ phía các DNKN [69] [83] [91]. Các DNKN sẽ lợi dụng các chính sách hỗ trợ của chính phủ để trục lợi, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước và những người cần được hỗ trợ thì không được hỗ trợ, tạo sự mất công bằng trong xã hội. Thêm vào đó, nếu không quản lý chặt chẽ, các DNKN sẽ không sử dụng hiệu quả nguồn lực, dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao cũng như ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.

Chính vì vậy, để nâng cao hiệu lực các chính sách, quản lý thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp và phát triển DNKN theo đúng định hướng cần tăng cường kiểm tra, giám sát. Thông qua đây, các đối tượng quản lý sẽ bắt buộc tuân thủ các quy định, đối tượng hưởng thụ chính sách đúng và đủ, môi trường kinh doanh được cải thiện, đảm bảo công bằng giữa các thành phần trong xã hội. Ngoài ra, trong quá trình kiểm tra, giám sát các cán bộ sẽ tiến hành giải thích cũng như hướng dẫn việc thực hiện đúng các quy định hiện hành. [67]

MÃ ĐỀ TÀI 005

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *