Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam
Đặc điểm tự nhiên của các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam
Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này có khi được gọi là Tây Bắc Bắc Bộ và là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng) (Nguồn http //dattaybac.com/GioiThieu.aspx? enuId=31vàLeft enu=3). Bao gồm 4 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Phía Bắc là những dãy núi cao, phân định biên giới Việt – Trung… Phía Tây và Tây Nam là các dãy núi cao kế tiếp nhau, phân định biên giới Việt – Lào. Phía Đông và Đông Nam là dãy Hoàng Liên Sơn cao nhất Việt Nam và Đông Dương với đỉnh Phanxipang (3.143 m), giáp với Đông Bắc và một phần đồng bằng sông Hồng. Phía Nam giáp với Bắc Trung Bộ.
Theo quan điểm khu vực học, không gian xã hội Tây Bắc còn bao gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ. Không gian địa lý của khu vực Tây Bắc hiện còn chưa được nhất trí. Một số ý kiến cho rằng đây là vùng phía Nam (hữu ngạn) sông Hồng. Một số ý kiến lại cho rằng đây là vùng phía Nam của dãy núi Hoàng Liên Sơn.
Địa hình Tây Bắc được hình thành trong nhiều giai đoạn kiến tạo mãnh liệt khác nhau nên rất phức tạp với nhiều vết đứt gãy, uốn nứt và sụt lún. Vùng núi chiếm trên 80% tổng diện tích tự nhiên; xen kẽ là những bình nguyên và thung lũng hẹp. Ðiểm cao nhất cao 3.143m so với mặt nước biển, điểm thấp nhất cao 243,18m, độ cao trung bình là 1.700m. Trên 50% diện tích có độ cao > 1.000m; gần 80% diện tích có độ dốc > 250 xen kẽ với nhiều thung lũng hẹp hình chữ V. Các dãy núi trong vùng chạy dài theo hướng Tây Bắc – Ðông Nam – Ðông Bắc. Có nhiều đỉnh cao như đỉnh Phan Xi Păng: 3.143m, Tả Giàng Phình: 3.090m, Phu Si Lung: 3.076m… Có những cao nguyên tương đối bằng phẳng như Cao nguyên Mộc Châu, Cao nguyên Nà Sản… Có những thung lũng rộng làm hình thành những cánh đồng lớn như Mường Thanh, Mường Lò, Mường Than, Mường Tấc.
Khí hậu Tây Bắc mang tính nhiệt đới gió mùa, mùa khô thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mùa mưa thường từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng mưa trung bình/năm khoảng 1.500 – 2.200 mm. Các hiện tượng gió lốc, mưa đá thường xuyên xảy ra. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24,70C; cao nhất 41,20C; thấp nhất 190C. Tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ trung bình từ 27-290C; tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình 15,5-16,50C. Tần suất sương muối xảy ra: 0,9 ngày/năm.
Tây Bắc có nhiều sông suối lớn như sông Hồng, sông Đà, sông Mã, sông Nậm U cùng nhiều sông suối lớn nhỏ khác. Bình quân cứ 1 km2 có 2,5 m dòng chảy nhưng khó có điều kiện phát triển giao thông đường thuỷ bởi sông suối Tây Bắc đều có độ dốc lớn và nhiều ghềnh thác. Chế độ thuỷ văn có 2 mùa rõ rệt: mùa khô nước rất cạn – nhiều đoạn cạn khô; nhưng vào mùa mưa nước dâng cao, chảy xiết, sông suối trở lên hung dữ, không thể đi lại bằng đường thuỷ.
Khu vực Tây Bắc – phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Tây Bắc, gồm 12 tỉnh: Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các huyện phía Tây của tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An (Nguồn: http //dattaybac.com/GioiThieu.aspx? enuId=31vàLeft enu=3). Đây là những địa bàn thuộc vùng núi cao, biên giới, địa hình hiểm trở phức tạp; có vị trí chiến lược quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Toàn vùng có tổng diện tích tự nhiên 109.416 km2, chiếm 1/3 diện tích cả nước; có 2.478 xã, phường, thị trấn (trong đó có 1.258 xã đặc biệt khó khăn và 233 xã biên giới với tổng chiều dài hơn 2.551 km đường biên giới với nước CHDCND Lào và Trung Quốc). Dân số trên 10.576 ngàn người, có hơn 30 dân tộc cùng chung sống, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm trên 63% dân số toàn vùng.
Tây Bắc là vùng có nguồn tài nguyên phong phú, có tiềm năng nhất nước ta về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản với các mỏ có giá trị như apatit, sắt, đá vôi, đất hiếm, đa kim, đa khoáng… và thuỷ điện – đây là lợi thế để phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, thuỷ điện, sản xuất giấy, sản xuất xi măng, chế biến gỗ. Khu vực Tây Bắc có nhiều hang động, phong cảnh đẹp, thuận lợi phát triển du lịch, du lịch sinh thái. Khu vực này có chung biên giới hai quốc gia, do vậy đây là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thương.
Vùng có địa hình đa dạng, có quỹ đất chưa sử dụng còn lớn cùng với các vùng tiểu khí hậu nhiệt đới và ôn đới để phát triển đa dạng nông nghiệp cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi rất đa dạng và phong phú, trong đó có những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao, có thể đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản.
Trong thời gian qua, khu vực Tây Bắc được Đảng, Chính phủ quan tâm đặc biệt và có nhiều chính sách đầu tư, ưu đãi nhằm nâng cao đời sống kinh tế-xã hội. Thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã giành một khối lượng vốn khá lớn tập trung vào vùng, thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 135, các dự án Quốc gia, các dự án sử dụng trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục, các hỗ trợ có mục tiêu khác và thông qua các dự án, chương trình trong chương trình hành động của Chính phủ. Nhiều dự án quốc gia đã và đang triển khai đầu tư tại đây – là tiền đề cho việc phát triển vùng.
Tuy nhiên, Tây Bắc là vùng có xuất phát điểm thấp trong cả nước, hầu hết là đều thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, nên đời sống của người dân còn khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao so với các vùng trong cả nước (năm 2009 là 24%). Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Tây Bắc, tỷ lệ hộ nghèo khu vực Tây Bắc hiện vẫn cao gấp 2,7 lần bình quân cả nước và có nguy cơ khoảng cách này ngày càng cao. Cụ thể: 6 tỉnh có tỷ lệ hộ cao cao gồm: Hà Giang: 23,21%; Cao Bằng: 20,55%: Yên Bái: 20,57%: Sơn La: 23,94%; Điện Biên 32,57% và Lai Châu 23,48%.
Tình hình phát triển kinh tế – xã hội của các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam
Sau hơn 20 năm đổi mới, bức tranh kinh tế Tây Bắc nhìn chung đã có những khởi sắc mới trong các lĩnh vực. Nông- lâm – ngư nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung như chè 86.000 ha, cây ăn quả 180.000 ha; phát triển chăn nuôi đại gia súc, cây dược liệu, mía đường bước đầu đã đưa cây cao su vào trồng ở Sơn La, Lai Châu, Điện Biên diện tích trên 20.000 ha. Công nghiệp được quan tâm đầu tư phát triển, giá trị sản xuất hàng năm tăng 18%, tiềm năng lợi thế kinh tế như thủy điện, chế biến khoáng sản, kinh tế cửa khẩu, du lịch được khai thác. Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, nước sạch, điện, viễn thông được đầu tư xây dựng làm tăng năng lực mới cho sản xuất và nền kinh tế. Các nguồn vốn đầu tư đã tập trung cải tạo nâng cấp 3.060 km quốc lộ như quốc lộ 1A, quốc lộ 2,3,6 và các tuyến vành đai quốc lộ 4, 279, 32… Đã có 1.481/1.559 xã có đường ô tô tới trung tâm (chiếm 95%) và 72,6% số xã có bưu điện, 100% trung tâm huyện phủ sóng di động, 100% số xã có điện thoại… Vốn đầu tư tuy tăng trưởng nhanh, bình quân đạt 25,59% nhưng phân tích cho thấy, khả năng huy động nguồn lực tại chỗ của các tỉnh khu vực Tây Bắc còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; phân bổ vốn đầu tư còn dàn trải, chưa tăng mạnh được năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Định hướng phát triển kinh tế dài hơi các tỉnh khu vực Tây Bắc là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông – lâm nghiệp nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai, khí hậu, lao động. Tây Bắc muốn phát triển nhanh và bền vững, tiến tới hòa nhập với sự phát triển chung của kinh tế cả nước cần huy động mạnh mẽ các nguồn lực và sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư cho phát triển kinh tế – xã hội (Nguồn Đinh Văn Sơn, 2019). Các chuyên gia kinh tế cho rằng, yêu cầu có tính cấp thiết và chiến lược là phải xây dựng các chính sách đầu tư phù hợp, như: chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút vốn ODA, FDI, vốn trong nước; chính sách phát triển hợp tác kinh tế với Trung Quốc, Lào; chính sách kinh tế cửa khẩu, biên mậu… Nhà nước tập trung vốn để đầu tư cho các công trình của Trung ương trên địa bàn các tỉnh và điều chỉnh chính sách, cơ cấu chi tiêu ngân sách Nhà nước để địa phương có nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng thiết yếu, bảo đảm các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội. Mặc dù kinh tế khu vực Tây Bắc đã có những chuyển biến quan trọng nhưng về cơ bản vẫn còn nghèo, các tiềm năng và lợi thế lớn chậm được khai thác. Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, dù xuất phát điểm thấp nhưng có hướng đi thích hợp, Tây Bắc vẫn có thể phát triển mạnh mẽ. Để đánh thức những tiềm năng, lợi thế đó, cần có giải pháp huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, xây dựng các chính sách hỗ trợ để Tây Bắc phát triển bền vững, tiến tới hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Bên cạnh đó, có thể thấy các sản phẩm nông lâm đặc sản của các tỉnh Khu vực Tây Bắc hiện nay có các sản phẩm đã được xuất khẩu, có những sản phẩm là đặc sản của vùng miền nhưng chưa từng tận dụng được giá trị để thúc đẩy xuất khẩu sang các quốc gia khác trên thế giới. Với các sản phẩm nông lâm đặc sản đã xuất khẩu, quá trình vừa qua dễ nhận thấy còn tồn tại nhiều vấn đề: tính hiệu quả thấp, tính chuyên nghiệp không cao từ khâu tổ chức sản xuất đến khâu tổ chức tiêu thụ. Hiện chủ yếu xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch qua biên giới, không có các hỗ trợ nên thường bị ép giá, còn hiện tượng tranh mua, tranh bán ảnh hưởng đến quyền lợi của bà con nông dân, doanh nghiệp và cả sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Tình hình sản xuất, kinh doanh mặt hàng chè các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam
Thực trạng khâu trồng trọt và thu hái
Quá trình điều tra và khảo sát cho thấy đặc điểm của mẫu khảo sát với đối tượng là người trồng chè được thể hiện qua các số liệu thống kê ở bảng 2.1, phụ lục 6. Trong đó, số hộ có thâm niên trồng chè trên 30 năm, từ trước thời kỳ đổi mới (trước 1986), chiếm hơn 1/4 mẫu khảo sát. Số lượng vườn chè tăng nhanh nhất ở giai đoạn 1987-2000 với tỷ lệ gần 40% số hộ trồng chè bắt đầu chuyên canh cây chè trong khoảng thời gian này. Tốc độ thâm nhập ngành chè chậm lại chút ít kể từ năm 2000 đến nay, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng tương đối cao với gần 35% số hộ nông dân mới bắt đầu trồng chè từ 20 năm trở lại đây. Có nhiều lý do khiến số lượng người trồng chè tăng lên trong những năm gần đây là do lợi ích của việc trồng chè khá rõ ràng bởi đây không phải là loại cây cần phải chăm sóc quá kỹ lưỡng (46,4%), đồng thời là dễ bán ra trên thị trường (50,1%), tạo thêm công ăn việc làm trong lúc nông nhàn (65,2%) và cho thu nhập tương đối cao hơn so với các cây trồng khác (40,8%).
Tuy nhiên, diện tích trồng chè của các hộ nông dân khá nhỏ (63,3% dưới 1 hecta), sản lượng chè khá ít (71% vườn chè cho sản lượng thấp hơn 1 tấn búp tươi/năm), với số lao động thường xuyên dưới 5 người chiếm tới gần 79,8%, trong đó có tới 50,6% hộ nông dân không cần thuê lao động thời vụ cho việc thu hái chè. Có tới gần 2/3 người trồng chè là nông dân tự do, họ tự canh tác và tự bán chè trên thị trường mà không có bất kì ràng buộc nào với các đơn vị chế biến. Số nông hộ tham gia vào hợp tác xã chiếm hơn 13% và số nông trường viên, những người thuê đất của nông trường, canh tác và thu hái theo tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể, chiếm gần 16,2% mẫu khảo sát. Đặc điểm này cho thấy nông dân các tỉnh miền núi Tây Bắc chủ yếu trồng chè theo kiểu tận dụng đất đai và lao động tại chỗ, trong lúc nông nhàn. Chỉ có một số vùng trồng chè chuyên canh lớn như Phú Thọ, Yên Bái mới có các nông hộ và nông trường lớn, làm quy mô rộng và đầu tư bài bản.
Liên quan đến xu hướng trồng chè hữu cơ, thì số nông hộ tham gia xu hướng này chiếm hơn 1/3 mẫu nghiên cứu, trong số 308 hộ đó thì có 67 hộ nông dân (21,7%) sử dụng hoàn toàn đất canh tác của mình cho chè hữu cơ. Số liệu này cho thấy, tuy nhận thức về giá trị của chè hữu cơ chưa được phổ biến ở các tỉnh miền núi Tây Bắc, nhưng bắt đầu đã có các bước chuyển đổi tương đối căn bản trong việc trồng trọt và thu hái chè. Các nhân tố bên ngoài là động lực chủ yếu tác động đến quyết định chuyển đổi sang canh tác chè hữu cơ. Trong đó, nhân tố đầu ra từ phía nhà máy và từ phía nông trường, dưới góc độ là các đơn vị đặt mua chè hữu cơ với mức giá cao hơn và có các chương trình tập huấn cụ thể với nông dân, chiếm vai trò chủ đạo với tỷ trọng lần lượt là 60,2% và 28,1% (Bảng 2.2, phụ lục 6). Các trường hợp trồng chè hữu cơ đều được nhà máy hoặc nông trường cấp vật tư và hóa chất bảo vệ thực vật đúng chủng loại vào đầu vụ và khi nông dân bán chè búp tươi cho nhà máy/nông trường thì giá bán sẽ tính trừ đi giá thành của vật tư nông nghiệp. Bên cạnh đó, chè giống thì được cấp miễn phí.
Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích tương đối rõ ràng của việc trồng chè hữu cơ, các nông hộ cũng nêu lên nhiều khó khăn ở giai đoạn ban đầu khi chuyển đổi phương pháp canh tác và thu hái, đó là: mất nhiều công sức để cải tạo vườn chè; thiếu vốn đầu tư cho trồng chè hữu cơ; kỹ thuật trồng và thu hái quá phức tạp; năng suất không cao như chè thường; giá cả không cao tương xứng với công sức và đầu tư; và không phải lúc nào cũng tìm được đầu ra ổn định.
Khâu trồng trọt và thu hái đã đạt được Năng suất, sản lượng chè tăng; việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới, đầu tư thâm canh, sản xuất chè theo hướng an toàn, bền vững đưa cơ giới hoá vào sản xuất được đẩy mạnh; đã hình thành được các vùng sản xuất chè thâm canh, có nhiều giống chè mới, có chất lượng được đưa vào gieo trồng, cải tạo; đồng thời bảo tồn và duy trì các giống chè đặc sản của từng địa phương; mặt hàng chè cung ứng cho thị trường có cơ cấu tương đối đa dạng, được chú ý hơn về chất lượng và tính an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu bấp bênh, sản xuất chè có tính vụ mùa cao tạo nên tình trạng lúc thì dư thừa, lúc thì khan hiếm vào những thời điểm khác nhau trong năm, không đồng bộ với công suất sản xuất cũng như nhu cầu tiêu dùng; các yếu tố đầu vào như phân bón, thuốc BVTV vẫn còn chưa đảm bảo, gây nhiều lo ngại liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm, dư lượng hóa chất tồn dư trên sản phẩm; ở khâu này, người nông dân có mức sinh lợi thấp nhất mặc dù là thành viên có đóng góp nhiều nhất và cũng chịu rủi ro lớn nhất. 2.1.2.2. Thực trạng khâu thu gom chè các tỉnh miền núi Tây Bắc
Có tới 75,6% lượng chè búp tươi được bán qua thương lái, hoặc ngay tại vườn chè hoặc tại điểm tập kết của thương lái. Lượng chè được thu mua bởi nông trường, nhà máy chế biến và hợp tác xã lần lượt là 25,6%, 19,8% và 17,8%. Chỉ có một số ít chè búp tươi (6,8%) là được giao dịch tự do ngoài chợ và không có địa chỉ xác định từ trước, và cũng có một số nông hộ (13,9%) có phương tiện và kỹ thuật tự sao khô chè thủ công và để bán chè búp khô sau đó (Bảng 2.3, phụ lục 6).
Giá chè bình quân năm 2020 có mức độ dao động rất lớn tùy thuộc vào từng loại chè cũng như cách thức thu hái. Mức giá chè tươi thấp nhất là khoảng 4.000 – 6.000 đ/kg, được giao dịch đối với các loại chè cắt máy. Đây cũng là loại chè được giao dịch với tỷ trọng cao nhất, lên tới 46,7% thị trường. Tương ứng với mức giá chè khô là khoảng 11.500 – 15.000 đ/kg. Loại chè này thường để chế biến chè đen xuất khẩu hoặc đấu trộn và đóng túi lọc dành cho tiêu dùng nội địa. Loại chè hái tay (1 tôm 2 lá) được bán với mức giá cao hơn, với chè loại A có thể đạt mức giá hơn gấp đôi chè hái máy, khoảng 6.000 – 7.000 đ/kg đối với loại
A và thấp hơn đối với loại B và C. Loại chè này thường để chế biến chè xanh cho tiêu dùng cả nội địa và xuất khẩu
Các loại chè đặc sản các tỉnh miền núi Tây Bắc đạt được mức giá bán rất cao, từ 40.000 đến 80.000 đồng với chè búp tươi và 250.000 đến 450.000 đồng với chè búp khô, cao hơn chục lần so với các loại chè phổ thông. Đó là 13 loại chè Shan chất lượng cao trong số hơn 150 giống chè hiện nay ở Việt Nam. Ở Tây Bắc, chè Shan đang được trồng phổ biến ở Sơn La (Tà Xùa, Thuận Châu), Lào Cai (Bản Liền, Tả Thàng), Yên Bái (Suối Giàng, Văn Chấn). Đó là các loại chè được hái từ các cây chè cổ thụ có tuổi hàng trăm năm, sống tự nhiên trên các núi đá, nó được coi là sản phẩm hữu cơ và được cả thị trường trong nước và quốc tế đánh giá rất cao. Nhờ giống chè và nhờ lợi thế khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng vùng cao, được tích tụ sương núi nên hương chè Shan rất thơm, màu nước chè vàng óng ánh, rất được nước và có vị đắng, ngọt hòa quyện thuần nhất. Tuy nhiên, năng suất thấp và quy mô sản xuất nhỏ là hai điểm yếu hiện nay của chuỗi cung ứng chè đặc sản các tỉnh miền núi Tây Bắc.
Vai trò của người thu gom nguyên liệu ít được quan tâm và coi trọng. Doanh nghiệp sản xuất, chế biến thường tự mình ký kết hợp đồng liên kết cung cấp nguyên liệu với hàng trăm, hàng nghìn hộ nông dân với các trình độ và phương thức canh tác khác nhau.
Thực trạng khâu chế biến chè
Chế biến chè là một khâu quan trọng trong chuỗi cung ứng chè. Đây vừa là thị trường tiêu thụ búp chè tươi, vừa làm tăng giá trị của sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng cho việc mở rộng thị trường quốc tế. Tại nhà máy, chè được sơ chế với các khâu sấy khô và lên men. Từ búp chè và lá chè, dưới tác dụng của nhiệt độ hoặc men ở các mức độ khác nhau, nhà máy sẽ cho ra các sản phẩm đặc trưng riêng biệt, như chè đen, chè xanh, chè vàng, chè Ôlong, chè hương, chè hoa.
Để sản phẩm chè đạt được chất lượng cao, lá chè xanh cần được sơ chế trong vòng vài tiếng đồng hồ sau khi thu hái. Vì vậy, nhà máy chế biến thường được đặt ở khu vực gần nơi trồng chè. Các tỉnh miền núi Tây Bắc có gần 200 nhà máy chế biến chè (trên tổng số khoảng 700 cơ sở quy mô công nghiệp toàn quốc, với tổng công suất trên 500.000 tấn chè khô/năm), chưa kể hàng nghìn cơ sở nhỏ sao sấy chè đang cạnh tranh khốc liệt và thiếu tổ chức. Quy mô và công suất của các đơn vị chế biến ở Tây Bắc khá nhỏ với công suất dưới 500 tấn/năm, có tới 2/3 là cơ sở nhỏ với số lao động nhỏ hơn 50 người, có đến gần nửa số cơ sở chế biến chỉ hoạt động dưới 8 tháng trong năm. Đặc điểm của các doanh nghiệp và cơ sở chế biến chè trong mẫu khảo sát các tỉnh miền núi Tây Bắc được mô tả qua số liệu bảng 2.5, phụ lục 6.
Về công nghệ chế biến, thì số nhà máy được trang bị đồng bộ, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật chỉ chiếm 20%, số nhà máy trung bình 40%, còn lại 40% là các cơ sở chế biến chắp vá, không đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của quá trình chế biến chè. Tại các nhà máy quy mô lớn, việc quản lý sản xuất và các chế độ kỹ thuật đều phải đảm bảo rất chặt chẽ, đặc biệt việc đảm bảo thực hiện nghiêm túc vệ sinh an toàn thực phẩm theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 và ISO 22000.
Chè được sản xuất theo công nghệ OTD: là chè được sản xuất theo phương pháp truyền thống. Đây là phương pháp phổ biến nhất trong chế biến trà đen. Với phương pháp này chăm sóc nhiều hơn tập trung vào lá chè. Sau khi lá được chọn, được làm khô héo trong không khí ấm cho đến 18 giờ để làm giảm hàm lượng nước, cho đến khi lá mềm mại và dẻo. Sau đó, các lá được cuộn trong một máy đặc biệt, nhẹ nhàng ép và xoắn lá giúp phá vỡ các tế bào để bắt đầu quy trình oxi hóa. Quá trình này có thể mất vài lần tùy thuộc vào loại lá và máy. Sau khi lá được cắt, lá một lần nữa tiếp xúc với không khí trong môi trường khí hậu được kiểm soát để có thể tiếp tục oxi hóa, làm thay đổi mức độ Polyphenol trong lá. Đây là điểm mà hương vị của lá bắt đầu phát triển. Khi lá đạt mức độ oxi hóa thích hợp, lá chè được đưa vào một máy để sấy khô và ngừng quy trình oxi hóa.
Chè được sản xuất theo công nghệ CTC: phương pháp này được phát triển từ sự phát triển trà túi lọc. Phương pháp này tạo thuận lợi cho quá trình cắt nhỏ lá chè hơn và thời gian xử lý nhanh hơn. Trong quá trình làm héo, sấy khô, bước cán được thay thế bằng bước băm nhỏ lá trong một máy cắt. Điểm khác nhau cơ bản giữa hai phương pháp là giai đoạn phá vỡ tế bào và tạo hình. Trên thế giới, lên men liên tục trên băng tải để sản xuất chè đen OTD đã được nghiên cứu và áp dụng. Sản xuất chè OTD bằng phương pháp thủ công, lên men gián đoạn dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ những phân tích ưu điểm, nhược điểm công nghệ sản xuất OTD và CTC (Bảng 2.1) có thể thấy công nghệ sản xuất CTC giúp tạo giá trị gia tăng nhiều hơn cho mặt hàng chè như tế bào bị phá vỡ hoàn toàn tạo điều kiện tốt cho quá trình biến đổi sinh hóa làm tăng chất lượng sản phẩm, dễ giới hóa sản xuất, sản phẩm có chất lượng đồng đều, màu nước pha đẹp nhưng cần đầu tư trang thiết bị và quy trình kiểm soát đầu vào cao hơn.
Sản phẩm chè Tây Bắc vẫn chủ yếu ở dạng sơ chế, bao gồm chè đen và chè xanh. Chè đen được chế biến theo công nghệ OTD và CTC. Các nhà máy sử dụng công nghệ OTD của Liên Xô (cũ) hiện chiếm phần lớn với hệ thống thiết bị cũ, không được đầu tư đổi mới. Các nhà máy dùng công nghệ CTC có thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhưng số nhà máy này còn ít. Bước đầu đã hình thành một số cơ sở chế biến chè xanh đặc sản, chất lượng cao, có máy móc thiết bị tương đối hiện đại, sản xuất theo công nghệ của Đài Loan, Trung Quốc. Bên cạnh các nhà máy có quy mô công nghiệp, ước tính trên địa bàn Tây Bắc hiện có hơn 2000 cơ sở chế biến chè nhỏ lẻ đang hoạt động dưới hai hình thức, hoạt động độc lập hoặc tham gia vào các làng nghề chế biến chè, tập trung nhiều nhất ở tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và Sơn La. Cơ sở vật chất, trang thiết bị chế biến của các cơ sở nhỏ lẻ khá yếu kém, tất cả đều không có xưởng chế biến xây dựng đúng tiêu chuẩn, chủ yếu là các lán tạm, mỗi cơ sở (hộ gia đình) có từ 1 – 3 bom quay chè, 1 – 2 cối vò chè. Đa số các hộ sử dụng bom quay bằng sắt hay bị gỉ qua thời gian sử dụng, có khả năng thôi nhiễm các chất độc hại làm ảnh hưởng đến chất lượng và an toàn thực phẩm đối với chè chế biến; chỉ có 10% số hộ có trang bị thùng quay bằng inox và 9% cơ sở đầu tư máy đóng gói, máy hút chân không phục vụ cho việc đóng gói, bảo quản sản phẩm.
Do phát triển không theo quy hoạch, định hướng của chính quyền địa phương nên các cơ sở chế biến nhỏ lẻ nằm rải rác trong khu dân cư, đa phần sản xuất tại nhà, khu vực sản xuất chật hẹp, không có tường ngăn cách với khu vực sinh hoạt và khu chăn nuôi gia súc, gia cầm nên không đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm. Khu vực chế biến, khu chứa nguyên liệu, khu chứa chè thành phẩm cùng chung một chỗ, không có biện pháp quản lý phù hợp để tránh lây nhiễm chéo trong quá trình chế biến.
Với công suất trung bình 0,45 tấn búp tươi/ngày (một số cơ sở vào cao điểm thu hoạch chè búp tươi hoạt động liên tục 3 ca/ngày tiêu thụ 0,75 – 1,5 tấn nguyên liệu búp tươi một ngày), các cơ sở chế biến nhỏ lẻ trung bình tiêu thụ 570 – 654 tấn búp tươi/năm. Nguyên liệu tự có chỉ đáp ứng được 24% năng lực chế biến, 76% nguyên liệu còn lại phải đi thu mua từ các xã và các huyện lân cận. Những năm thời tiết thuận lợi năng suất chè búp cao, hoạt động của các cơ sở chế biến nhỏ lẻ đã góp phần giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm chè búp tươi, đặc biệt vào cao điểm thu hoạch khi các nhà máy chè biến trong vùng không tiêu thụ hết nguyên liệu. Nhưng những năm sản lượng chè búp sụt giảm, nguồn nguyên liệu khan hiếm dẫn đến sự tranh mua nguyên liệu gay gắt giữa các doanh nghiệp, nhà máy chế biến với các cơ sở chế biến nhỏ lẻ, dẫn đến chất lượng bè búp tươi đưa vào chế biến không đảm bảo, chất lượng sản phẩm thấp. Chẳng hạn như, đầu niên vụ chè năm 2020 do thị trường tiêu thụ hạn chế do ảnh hưởng của đại dịch Covid, đồng thời nguồn nguyên liệu búp tươi thiếu do thời tiết khắc nghiệt và dịch bệnh nên nhiều cơ sở hoạt động cầm chừng. Sự mất cân đối giữa công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu làm mất ổn định ngành chè. Đó là trở ngại lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp chế biến các tỉnh miền núi Tây Bắc (Bảng 2.6, phụ lục 6). Các doanh nghiệp không quản lý được vùng nguyên liệu đều bị giảm năng lực sản xuất, cạnh tranh và biên lợi nhuận.
Ở khâu này, các đơn vị chế biến đã bước đầu chú trọng đầu tư hơn về trang thiết bị, dây chuyền sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào chế biến, dần tiếp cận với sản xuất theo công nghệ CTC; một số doanh nghiệp chế biến chè đã có biện pháp đảm bảo kiểm soát quy trình sản xuất, bảo quản, vận chuyển an toàn, hợp vệ sinh. Tuy nhiên, chế biến chè có tính vụ mùa cao nên hiệu suất vận hành máy móc đã đầu tư, các cơ sở chế biến nhỏ lẻ, manh mún; việc ứng dụng công nghệ CTC vẫn chưa nhiều nên việc tạo ra các mặt hàng chè có giá trị cao còn rất hạn chế; sự phân bổ không đều về lợi ích và giá trị gia tăng ở khâu chế biến cũng có mức sinh lợi thấp do chủ yếu bán sản phẩm thô; mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến với các hộ nông dân trồng chè tự do là kém chặt chẽ nhất.
Thực trạng tiêu thụ chè
Thực trạng xuất khẩu chè
Hiện nay, khoảng 70% sản lượng chè Tây Bắc được xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu chè chủ yếu qua ba kênh chính: (i) Thông qua các doanh nghiệp nhà nước (chủ yếu là thông qua Tổng công ty Chè Việt Nam, VINATEA); (ii) Thông qua các công ty liên doanh và các công ty nước ngoài; (iii) Thông qua các công ty tư nhân.
Các sản phẩm chè xuất khẩu chủ yếu gồm có chè đen, chè xanh, chè vàng, chè Ôlong, chè hương hoa, chè túi lọc…
– Chè đen Loại chè này chiếm gần 80% tổng xuất khẩu chè với các khách hàng chủ chốt là Pakistan, Đài Loan và Liên Bang Nga. Chè đen là sản phẩm được lên men ở mức độ cao nhất trong quá trình chế biến, làm biến đổi hầu hết các thành phần hóa học của lá chè. Chè có độ chát dễ chịu, hương thơm đặc trưng và nước có màu đỏ nâu. Tùy theo công nghệ chế biến, ta có chè đen Orthodox và chè đen CTC.
– Chè xanh Được xuất khẩu chủ yếu đi Trung Quốc và Đài Loan. Theo thành phần hóa học, chè xanh rất gần với lá chè tươi, các chất như tanin-catechin sẽ không bị biến đổi trong quá trình chế biến.
– Chè vàng Đây là sản phẩm trung gian giữa chè xanh và chè đen. Dưới tác dụng sơ bộ của men oxy hóa trong quá trình làm héo, hợp chất tanin-catechin biến đổi tạo cho chè có mùi hương. Nước pha của chè vàng có màu vàng đậm hơn chè xanh, có hương vị dịu đươm, tươi mát hơn so với chè xanh.
– Chè Ôlong: Đây là loại chè bán lên men, đòi hỏi kỹ thuật chế biến rất công phu từ búp chè tươi giống của Trung Quốc, Đài Loan với các thiết bị chuyên dùng hiện đại. Chè có dạng hình viên hoặc bán cầu, có màu nước vàng trong sáng, có hương thơm ngát đặc biệt và bền hương. Chè Ôlong có giá trị kinh tế rất cao.
– Chè hương, chè hoa Là loại chè đen và chè xanh nói trên, người ta cho hấp thụ hương thơm của hương liệu hoặc hoa tươi, trong đó quá trình sao, ướp hương thơm vào chè rất cầu kỳ. Hương liệu khô ướp chè gồm có hoa ngâu, cúc, hạt mùi, quế, cảm thảo. Hoa tươi ướp chè thường dùng là sen, nhài, sói, hòng, mộc lan.
Chè túi lọc: Từ tất cả các loại nêu trên, các doanh nghiệp phối trộn và đóng gói chè thành túi lọc để phù hợp với thị hiếu và nhịp sống hiện đại ngày nay.
Hiện nay, các dòng sản phẩm xuất khẩu có tỷ trọng lớn nhất của Việt Nam là chè đen Orthodox, chè đen CTC và chè xanh, thường được đóng gói dưới dạng dời, 3kg/túi. Thị trường chè có xu hướng đón nhận dòng sản phẩm sạch, cao cấp. Tuy nhiên các doanh nghiệp chế biến chè đang gặp trở ngại lớn về vùng nguyên liệu, doanh nghiệp không sở hữu và quản lý được vùng nguyên liệu sẽ giảm năng lực sản xuất, cạnh tranh, biên lợi nhuận. Ngày nay, các thị trường tiêu thụ chè chất lượng cao đòi hỏi chất lượng không chỉ dựa trên các tiêu chí truyền thống như tiêu chuẩn hóa lý, vệ sinh thực phẩm và cảm quan của sản phẩm. Thị trường còn đòi hỏi các yêu cầu khác đối với sản phẩm như khả năng truy nguyên nguồn gốc, khả năng kiểm soát toàn bộ chuỗi từ trồng trọt đến tiêu thụ, đảm bảo việc sản xuất đáp ứng các thực hành nông nghiệp tốt, kiểm soát quản lí chất lượng an toàn thực phẩm, đảm bảo không dư lượng hóa chất, chuỗi cung ứng minh bạch đảm bảo quyền lợi cho người nông dân, cũng như những yêu cầu xã hội liên quan đến sản phẩm như an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động, không sử dụng lao động trẻ em, đảm bảo các yêu cầu về môi trường, nguồn nước, đa dạng sinh học…
Để sản phẩm chè có thể đáp ứng được nhu cầu của những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản, các sản phẩm chè Việt phải tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn tự nguyện về sản xuất bền vững của Việt Nam như VietGap (thực hành nông nghiệp tốt Việt Nam), của quốc tế như GlobalGap (thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu), Utz Certified (kinh doanh sản phẩm nông nghiệp có trách nhiệm), Rainforest Alliance (chứng nhận rừng bền vững), Fair Trade (thương mại công bằng), Organic (sản phẩm hữu cơ). Các tiêu chuẩn bắt buộc và tự nguyện như vậy là công cụ giúp các đơn vị sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm và tiếp cận thị trường tốt hơn.
Việc thiếu một cơ sở thẩm định chất lượng mang tầm quốc tế cũng là nguyên nhân chính khiến các nhà máy không xác định được giá trị sản phẩm, sản phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu chè bị khách hàng nước ngoài ép giá.
Doanh nghiệp xuất khẩu là những thành viên đóng vai trò cầu nối trong chuỗi cung ứng chè xuất khẩu. Họ có mối quan hệ rộng rãi với các nhà máy chế biến, với nhà môi giới ở thị trường quốc tế, với doanh nghiệp đấu trộn ở quốc gia tiêu thụ chè. Tại Việt Nam hiện nay có hơn 400 công ty thương mại, chuyên thu mua chè từ các nhà sản xuất, chế biến để cung cấp cho khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp đó có trụ sở tại Hà Nội, Thái Nguyên, Lâm Đồng và các thành phố lớn khác. Ở các tỉnh miền núi Tây Bắc vẫn còn quá ít các doanh nghiệp có năng lực tiếp cận được trực tiếp với thị trường quốc tế. Các địa phương cũng chưa tổ chức được các chương trình xúc tiến thương mại nhằm giới thiệu tiềm năng phát triển cây chè (Lễ hội chè; Tuần văn hóa chè… như ở Lào Cai, Phú Thọ).
Đối với các doanh nghiệp chè Tây Bắc, thị trường nội địa luôn chiếm vị trí quan trọng và chủ đạo (Bảng 2.7, phụ lục 6). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đều nỗ lực tìm nhiều thị trường xuất khẩu khác nhau. Thị trường xuất khẩu quan trọng nhất là Đài Loan (có số điểm quan trọng là 3,64), sát nút theo sao là thị trường Trung Quốc (3,54). Cả hai thị trường này đều có vị trí địa lý thuận tiện, khoảng cách gần các tỉnh các tỉnh miền núi Tây Bắc và có văn hóa sử dụng trà tương đối giống với Việt Nam, đặc biệt là đối với các loại chè xanh. Giữ tầm quan trọng tiếp theo về vị trí xuất khẩu chè đối với Tây Bắc là Pakistan (2,97), Liên Bang Nga (3,08) và Mỹ (3,32), với các sản phẩm chè đen giữ vai trò xuất khẩu chủ lực.
Để đạt được hiệu quả xuất khẩu cao hơn, các doanh nghiệp đề đạt nhiều mong muốn với các đối tác xuất nhập khẩu (Bảng 2.8, phụ lục 6). Các doanh nghiệp chế biến chè nhất trí cao về tính cấp thiết đối với việc cung cấp thông tin về thị trường (mức độ cần thiết đạt 4,29), cũng như mong muốn các bạn hàng gửi sớm các đơn hàng chính xác (4,14) để doanh nghiệp chủ động trong công tác chuẩn bị, đồng thời đề nghị phía đối tác không tùy tiện hủy đơn hàng (4,53). Ngoài ra, doanh nghiệp còn kêu gọi sự liên kết gần gũi hơn của đối tác thương mại thông qua các hoạt động đầu tư vào khâu chế biến (4,65) và vào vùng nguyên liệu của doanh nghiệp (3,71). Công tác hướng dẫn kiểm tra chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu cũng cần được tăng cường (3,39) và việc hướng dẫn kỹ thuật (3,61) có thể đóng góp thiết thực hơn cho mối liên kết giữa sản xuất với thương mại.
Cho tới thời điểm này, các doanh nghiệp chè Tây Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung không bán chè qua hệ thống đấu giá quốc tế vì nhiều lý do khác nhau, trong đó một phần do khối lượng bán ra không đủ lớn và do các nhà xuất khẩu đều có mối quan hệ lâu năm với bạn hàng quốc tế. Ngành chè Việt Nam đã xây dựng thương hiệu quốc gia Cheviet từ năm 2009. Chương trình được vận động trên phạm vi toàn quốc, và đến nay thương hiệu Cheviet đã được đăng ký bảo hộ ở 70 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có gần 20 doanh nghiệp đăng ký tham gia sản xuất chè theo đúng tiêu chuẩn của Cheviet. Còn với các thương hiệu riêng của doanh nghiệp thì cũng có rất ít doanh nghiệp đầu tư vào thương hiệu, đóng gói gia tăng giá trị cho sản phẩm.
Ngày nay, các thị trường xuất khẩu, những nơi tiêu thụ chè chất lượng cao đòi hỏi chất lượng không chỉ dựa trên các tiêu chí truyền thống như tiêu chuẩn hóa lý, vệ sinh thực phẩm và cảm quan của sản phẩm. Thị trường còn đòi hỏi các yêu cầu khác đối với sản phẩm như khả năng truy nguyên nguồn gốc, khả năng kiểm soát toàn bộ chuỗi từ trồng trọt đến tiêu thụ, đảm bảo việc sản xuất đáp ứng các thực hành nông nghiệp tốt, kiểm soát quản lý chất lượng an toàn thực phẩm, đảm bảo không dư lượng hóa chất, chuỗi cung ứng minh bạch đảm bảo quyền lợi cho người nông dân, cũng như những yêu cầu xã hội liên quan đến sản phẩm như an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động, không sử dụng lao động trẻ em, đảm bảo các yêu cầu về môi trường, nguồn nước, đa dạng sinh học…
Những năm gần đây ngành chè Tây Bắc đang đối mặt những nguy cơ mất thị trường xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu thấp do vấn đề sản phẩm trà xanh không bảo đảm an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè vượt ngưỡng cho phép của một số nước nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu chỉ chăm chăm đi mua rồi bán theo cách ăn xổi mà không có chiến lược bền vững. Dẫn tới, không truy xuất được nguồn gốc các loại của Tây Bắc, chưa đáp ứng các hàng rào kỹ thuật hội nhập ngày càng cao, chưa phát triển và mở rộng vào các thị trường đẳng cấp cao, khó tính, giá trị xuất khẩu cao.
Thực trạng phân phối, tiêu thụ chè trong nước
Người Việt Nam có tập quán uống chè từ lâu đời nhưng phần lớn trước đây là uống chè tươi (nấu trực tiếp từ lá, cành chè). Vài ba thập kỷ nay khi ngành chè bắt đầu phát triển thì dân cư đô thị cũng như ở nông thôn đã quen sử dụng chè chế biến. Hiện nay, mức tiêu thụ của thị trường trong nước vào khoảng 30.000 tấn/năm, chiếm trên khoảng 20 – 30% tổng sản lượng chè các loại, chủ yếu là chè xanh và chè ướp hương. Ngoài ra, còn một số lượng chè nhập khẩu đáng kể với nhiều mẫu mã, chất lượng khác nhau như Lipton, Dilmah… được tiêu thụ khá rộng rãi trong các nhà hàng, khách sạn và những người có thu nhập khá hoặc lớp trẻ đô thị. Nếu tính tổng lượng chè tiêu thụ trong nước cho tất cả các đối tượng thì bình quân tiêu thụ khoảng 0,3 kg chè trên đầu người. Đây là một chỉ tiêu thấp so với các nước như Anh (2,87kg), Tuynidi (1,82kg), Ấn Độ (0,55kg), Mỹ (0,45kg)… và thấp hơn cả mức bình quân đầu người một năm trên thế giới là 0,5kg.
Vấn đề đặt ra đối với thị trường chè trong nước là thị hiếu truyền thống và thị hiếu của lớp trẻ, của tầng lớp có thu nhập cao, của du khách du lịch quốc tế đòi hỏi sản phẩm chè phải nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, sử dụng tiện lợi, văn minh lịch sự và giá cả hợp lý… đang là thách thức đối với ngành chè. Điều này đặt ra cho ngành chè yêu cầu là phải nâng cao năng lực cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Ở Việt Nam chè xanh búp và chè xanh đã qua chế biến được người tiêu dùng sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên người tiêu dùng hiện nay có tâm lý e ngại về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Vì vậy, muốn kích cầu thì người sản xuất và ngành chè cần có biện pháp giảm thiểu dư lượng hóa chất trên sản phẩm chè.
Về giá cả, giá chè trong nước những năm qua tương đối ổn định. Giá chè hương (chè Sen, chè Nhài) là 250 – 350 nghìn đồng/kg, chè xanh ngon là: 300 – 400 nghìn đồng/kg, chè xanh thường là: 120 – 180 nghìn đồng/kg. Ngoài ra còn các loại chè Ôlong giá từ 250.000 – 1.100.000đ/kg, chè túi lọc 500.000 – 650.000đ/kg sản xuất trong nước (Bảng 2.9, phụ lục 6).
Khâu tiêu thụ đang dần chuyển biến và hướng tới đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao của thị trường quốc tế; các doanh nghiệp tiêu thụ đã bắt đầu quan tâm đến việc tổ chức chặt chẽ hơn, mở rộng đã được hình thành và triển khai có hiệu quả, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường; nhận thức được tầm quan trọng của việc cộng tác và liên kết với nhau trong chuỗi cung ứng nên đã có những nỗ lực ban đầu trong việc hỗ trợ các nông hộ về giống, kỹ thuật và vốn để đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu, để các bên cùng nhau hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, thu gom, chế biến và xuất khẩu của các thành viên khá rời rạc, thiếu sự hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong chuỗi, dẫn đến tình trạng khâu trồng chè không ổn định đầu ra, doanh nghiệp chế biến thiếu nguyên liệu và nguyên liệu có chất lượng thấp; thiếu khả năng phát triển và sản xuất các sản phẩm có giá trị cao phục vụ tiêu thụ; mối quan hệ cộng tác giữa doanh nghiệp tiêu thụ với các thành viên khác trong chuỗi cung ứng còn lỏng lẻo, nhiều điểm thoả thuận giữa các thành viên trong chuỗi, trong các hợp đồng vẫn còn thiếu cơ sở pháp lý, thiếu chế tài xử phạt… khiến cho các mối quan hệ cộng tác thiếu bền vững.
Mã đề tài 014