Khái niệm và đặc điểm nguồn nhân lực của các doanh nghiệp FDI

Khái niệm về nguồn nhân lực
Theo tổng quan của NCS về các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến khái niệm nhân lực, nguồn nhân lực dưới các góc độ khác nhau.
Theo Trần Kim Dung (2006), Quản trị nhân lực, NXB Thống kê, Hà Nội. “Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động – con người có sức lao động”.
Như vậy, nhân lực là nguồn lực trong mỗi cá nhân người lao động, bao gồm cả thể lực và trí lực.
Thể lực chỉ sức khoẻ của thân thể, nó phụ thuộc vào sức vóc, tình trạng sức khoẻ của từng người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ nghỉ ngơi, phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính.
Trí lực chỉ sự suy nghĩ, hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, khả năng sáng tạo, tài năng, quan điểm, lòng tin, nhân cách con người.
Trong một tổ chức, có sự phối kết hợp giữa các cá nhân để trở thành một tập thể thống nhất thực hiện mục tiêu chung, từ đây xuất hiện khái niệm nguồn nhân lực.
Xét theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn nhân lực của một quốc gia hay địa phương. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế ILO thì “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”. Như vậy, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Theo Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), “NNL là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, là nội lực xã hội của một quốc gia”.
Theo Nguyễn Tiệp (2009), NNL là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. NNL có thể xác định cho một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương (tỉnh, thành phố…) và nó khác với các nguồn lực khác (tài chính, đất đai, công nghệ…) ở chỗ nguồn lực con người với hoạt động lao động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi giới tự nhiên làm cho các nguồn lực khác trở nên có ích.
Theo Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh (2008), “NNL được hiểu là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, biểu hiện dưới dạng số lượng và chất lượng nhất định và tại một thời điểm nhất định”.
Với xuất phát từ quan niệm coi NNL là nguồn lực với các yếu tố thể chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của các tổ chức, thì theo như Nicolas Herry trong cuốn Public Administration and Public affairss (Quản trị công và vấn đề công) thì: NNL là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới.
Xét theo nghĩa hẹp trong phạm vi một tổ chức, NNL là tập hợp những người lao động làm việc trong tổ chức đó. Theo Tổ chức ngân hàng thế giới, “NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó.
Ở đây NNL được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác nhưng nó có vai trò đặc biệt vì nó được sử dụng để khai thác, duy trì và sử dụng các loại vốn vật chất đó”. (trích dẫn lại theo Võ Đại Lược, 2015)
Theo David Begg và cộng sự (2008) “NNL là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được, nó có thể đem lại thu nhập trong tương lai”. Các tác giả này cho rằng kiến thức mà con người tích lũy được trong quá trình lao động sản xuất là mấu chốt vì chính kiến thức đó giúp họ tạo ra của cải, tài sản cho cuộc sống hiện tại và tương lai của chính họ.
Theo Bùi Văn Nhơn (2006) NNL doanh nghiệp là lực lượng lao động của từng doanh nghiệp, là số người có trong danh sách của doanh nghiệp, do doanh nghiệp trả lương.
Theo Trần Kim Dung (2011) “Nguồn nhân lực của một tổ chức được hình thành trên cơ sở của các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau theo những mục tiêu nhất định của doanh nghiệp”.
NNL được hình thành trên cơ sở của các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau theo những mục tiêu nhất định. Trong phạm vi luận án, tác giả tập trung nghiên cứu về NNL trong tổ chức.
Từ những phân tích trên đây, ta rút ra rằng NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. NNL (theo nghĩa rộng) với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quan trọng nhất, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển, là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Xét theo nghĩa hẹp trong phạm vi một tổ chức, NNL của một tổ chức bao gồm tất cả những người lao động làm việc trong tổ chức đó, hình thành trên cơ sở của các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau theo những mục tiêu nhất định của doanh nghiệp.
Theo sự phát triển của phân công lao động xã hội, các ngành kinh tế đã hình thành với tư cách là những lĩnh vực sản xuất được chuyên môn hóa. Để phát triển từng ngành kinh tế rất cần có NNL phù hợp với tư cách là bộ phận đặc thù của NNL quốc gia. Từ đó, có thể hiểu NNL của một ngành kinh tế là toàn bộ những người đang lao động và những người tương lai có khả năng thu hút vào tham gia lao động trong ngành đó, trong đó thành phần quan trọng nhất là những người làm việc.
KCN là một hình thức tổ chức lãnh thổ mới được hình thành ở nước ta từ những năm 90 của thế kỉ XX, việc phát triển các KCN đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều người lao động, tăng thu nhập cho cộng đồng dân cư và GDP của quốc gia. Việc phát triển các KCN đòi hỏi số lượng nhân lực lớn với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng. Đối với lao động của các doanh nghiệp FDI trong KCN, NNL chủ yếu được phân theo 4 nhóm chính: (1) nhóm cán bộ quản lý, lãnh đạo đơn vị; (2) nhóm các nhà chuyên môn bậc cao, bậc trung và cán bộ kỹ thuật; (3) nhóm nhân viên văn phòng/ dịch vụ và nhân viên bán hàng; (4) nhóm lao động phổ thông/công nhân. Ngoài ra NNL này cũng có thể được phân theo 2 nhóm: lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Nhóm lao động trực tiếp là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất: cán bộ kỹ thuật bậc cao, bậc trung; công nhân lành nghề đã qua đào tạo; Lao động phổ thông chưa qua đào tạo…. Nhóm lao động gián tiếp là những người gián tiếp tạo ra của cải
vật chất gồm: cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, nhân viên văn phòng…
Đặc điểm nguồn nhân lực của các doanh nghiệp FDI
Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp FDI trong KCN có những đặc thù riêng so với nguồn nhân lực nói chung do đặc điểm, tính chất của các KCN và loại hình doanh nghiệp FDI. KCN là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, trong đó các doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ lệ lớn, với nhiều lĩnh vực, loại hình và quy mô đa dạng.
Về chất lượng: Trình độ lao động trong khu vực FDI ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế như sau:
Thứ nhất, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng trong tổng lực lượng còn thấp, đội ngũ lao động chất xám còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện năm 2019 cho thấy, 33,8% doanh nghiệp nói chung khẳng định gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhân sự thích hợp với nhu cầu của mình, trong đó có 69% doanh nghiệp FDI cho rằng họ gặp trở ngại trong việc tuyển dụng lao động vì họ không đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật.
Thứ hai, tác phong và kỷ luật lao động còn thấp. Phần lớn lao động hiện nay của nước ta còn chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp. Đa số xuất thân từ nông thôn, còn mang “nặng” tác phong làm việc của nền nông nghiệp tiểu nông, còn tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động còn thiếu năng lực làm việc nhóm, chưa có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Các doanh nghiệp FDI còn tốn rất nhiều thời gian để đào tạo lại tác phong cho lao động sau đó mới tuyển đến làm việc chính thức.
Về độ tuổi, lao động làm việc tại các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI thuộc KCN chủ yếu là lao động sản xuất nên cần yếu tố sức khỏe tốt. Vì vậy, lao động tại các doanh nghiệp FDI chủ yếu là lao động trẻ tuổi trong độ tuổi từ 18 – 25. Nhóm nhân lực từ 25 – 40 tuổi chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực quản lý, quản đốc, hoặc là các chuyên gia về kỹ thuật. Tỷ trọng lao động trên 40 tuổi chiếm thấp, chủ yếu là lãnh đạo các doanh nghiệp.
Về tính chất: nguồn lao động tại doanh nghiệp FDI trong KCN là những lao động đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực, có mức độ chuyên sâu cần thiết đáp ứng yêu cầu của công nghệ. Tại các doanh nghiệp FDI bao gồm cả lao động trong nước và lao động nước ngoài. Lao động nước ngoài thường là các chuyên gia được cử sang để hỗ trợ quản lý, điều hành doanh nghiệp. Doanh nghiệp FDI là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, phản ánh sự pha trộn các yếu tố văn hoá của nhiều nước, thể hiện qua triết lý kinh doanh, tập quán, sự hiểu biết pháp luật, ngôn ngữ, lối sống, thói quen, lòng tin, thái độ, phong cách ứng xử của các bên tham gia. Do vậy, tại các doanh nghiệp FDI, nguồn nhân lực có sự đa dạng về ngành nghề, quốc tịch, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ. Nếu không quản lý tốt dễ dẫn đến những tranh chấp nội bộ, mâu thuẫn về những khác biệt trong tư duy truyền thống.
MÃ ĐỀ TÀI 019
Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *