Các khái niệm có liên quan
- Khái niệm khởi nghiệp
Khởi nghiệp là một khái niệm đa chiều, tương đối phức tạp, được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau và kèm theo các thuật ngữ có nghĩa tương tự như: khởi sự, khởi sự kinh doanh, lập nghiệp, khởi nghiệp, hoạt động khởi nghiệp,… Đến nay chưa có định nghĩa được thống nhất và được chấp nhận rộng rãi.
Theo Từ điển tiếng Việt, “khởi nghiệp” là một từ Hán Việt, trong đó, “khởi” có nghĩa là bắt đầu, “nghiệp” có nghĩa là công việc, nghề nghiệp, sự nghiệp, nên có thể hiểu “khởi nghiệp” là thuật ngữ chỉ sự bắt đầu sự nghiệp [61].
Theo Reynolds & cộng sự [153], Khởi nghiệp là một quá trình hoạt động của cá nhân bao gồm 4 giai đoạn: (1) Giai đoạn tiềm năng khởi nghiệp, nhận thức khả năng thành công nếu khởi nghiệp và có ý định sẽ khởi nghiệp; (2) Giai đoạn cá nhân huy động nguồn lực; (3) Thành lập doanh nghiệp; (4) Giai đoạn phát triển và chấm dứt doanh nghiệp.
Theo Kelly & cộng sự [121], khởi nghiệp là quá trình giúp cho các chủ thể thực hiện được ước mơ, hoài bão, khát vọng của mình với những tiêu chí khác biệt và đặc điểm cụ thể bao gồm 6 giai đoạn: (1) Nhà khởi nghiệp tiềm năng; (2) Ý định khởi nghiệp; (3) Thành lập doanh nghiệp; (4) Quản lý hoạt động kinh doanh; (5) Phát triển hoạt động kinh doanh; (6) Chấm dứt hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, nhiều quan điểm về khởi nghiệp được các nhà khoa học tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau:
Thứ nhất, quan điểm khởi nghiệp thường gắn liền với việc tạo ra các doanh nghiệp mới, các sản phẩm/dịch vụ mới, hoặc quy trình hoạt động mới của một công ty [173]. Khái niệm này được tiếp cận ở các góc độ như là việc hình thành, bắt đầu một cái gì mới, khởi nghiệp là tạo ra các kết hợp mới [156] hay khởi nghiệp bao gồm các hoạt động cần thiết để hình thành một doanh nghiệp mới [134] hoặc tạo ra một tổ chức mới [94], [136]. Khái niệm khởi nghiệp liên quan đến các thuật ngữ như: Bắt đầu một công việc kinh doanh mới [123] hoặc là tạo nên một doanh nghiệp mới [137]. Với góc độ tạo dựng doanh nghiệp mới, khởi nghiệp là một tổ chức được thiết kế nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc chắn [101] hoặc là việc bắt đầu tạo lập một công việc kinh doanh mới bằng đầu tư vốn kinh doanh hay mở cửa hàng kinh doanh [136].
Thứ hai, có quan điểm lại cho rằng, khởi nghiệp là hoạt động tự kinh doanh, tự làm chủ: Xu và Chen [185], cho rằng khởi nghiệp là một hoạt động có mục đích để khởi đầu, duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích về tài chính hay các lợi ích khác trong kinh doanh mà trong quá trình đó sẽ tạo ra một sự tự do cho chính người thực hiện hoạt động này; Begley và Tan [78] cho rằng khởi nghiệp là việc một cá nhân bắt đầu công việc kinh doanh của riêng họ hay khởi nghiệp là việc một cá nhân chấp nhận rủi ro để tạo lập doanh nghiệp mới và tự làm chủ nhằm mục đích làm giàu. [183]
Thứ ba, khởi nghiệp dưới góc độ khai thác các cơ hội kinh doanh [160] thì khởi nghiệp là khả năng để phát hiện và khai thác các mối lợi từ sự khác biệt về mức giá giữa các thị trường [123]. Khởi nghiệp là quá trình mà một cá nhân sẵn sàng tiên phong trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh hấp dẫn và khả thi mà họ nhận biết được đồng thời thu thập các nguồn lực cần thiết và bắt đầu khai thác cơ hội kinh doanh [147] [161]. Khởi nghiệp là quá trình mà một cá nhân tìm kiếm cơ hội không cần xét đến những nguồn lực mà hiện họ đang kiểm soát. [71]
Thứ tư, quan điểm khởi nghiệp gắn với đặc thù dựa trên đổi mới sáng tạo thì khởi nghiệp được hiểu là những dự án kinh doanh mang tính sáng tạo, có rủi ro và tăng trưởng cao [86]; hoạt động khởi nghiệp nhằm giải quyết một vấn đề mà giải pháp (đối với vấn đề đó) chưa rõ ràng và sự thành công không được đảm bảo. Khởi nghiệp nhìn chung là một việc kinh doanh mới, dựa trên một ý tưởng sáng tạo hoặc công nghệ có thể cung cấp lợi thế cạnh tranh bền vững [144]. Tuy nhiên, khởi nghiệp cũng có thể dựa trên các khía cạnh khác như điều chỉnh những công nghệ hiện tại cho mục đích mới, đặt ra một mô hình kinh doanh mới để mở ra các giá trị trước đây chưa được tìm ra, hoặc mang sản phẩm, dịch vụ đến một địa điểm mới hoặc nhóm khách hàng chưa được phục vụ. Theo quan điểm này, sự sáng tạo đổi mới là chìa khóa đưa đến thành công cho khởi nghiệp sáng tạo [108]. Một quá trình khởi nghiệp và kinh doanh thành công cần dựa trên sự đổi mới và sáng tạo liên tục, không có khuôn mẫu, người chủ có thể tìm thấy các ý tưởng mới cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Hướng này được nhiều học giả và nhà quản lý phân tích kỹ, Moore và cộng sự [143] cho rằng: Startup (khởi nghiệp sáng tạo) là tổ chức được hình thành để tìm kiếm mô hình kinh doanh có khả năng tăng trưởng và nhân rộng nhanh.
Theo Đề án hỗ trợ Hệ sinh thái Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đến năm 2025 được phê duyệt tại Quyết định số 844/QĐ-TTgCP ngày 18/05/ 2016, thì Khởi nghiệp được tiếp cận theo hướng khởi nghiệp sáng tạo là quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh mới dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ và mô hình kinh doanh mới nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có khả năng tăng trưởng nhanh [44].
Nghiên cứu của Đỗ Thị Hoa Liên [19] cho rằng khởi nghiệp không phải là quyết định của một cá nhân tại một thời điểm nhất định mà là kết quả của một quá trình, do đó khởi nghiệp là việc một cá nhân (tự mình hoặc cùng người khác), có khả năng sắp xếp các nguồn lực để nắm bắt được cơ hội kinh doanh mới, trên tinh thần đổi mới, sáng tạo để tạo một công việc kinh doanh riêng nhằm tạo việc làm, thu nhập và các giá trị cho riêng mình, đồng thời tạo ra giá trị có lợi cho nhóm khởi nghiệp, người lao động, cộng đồng và nhà nước.
Theo Hoàng Thị Hải Yến [64] thuật ngữ khởi nghiệp (Start up) dùng để chỉ một dạng thức kinh doanh mới với yêu cầu tạo ra cái mới (về công nghệ, về sản phẩm, về dịch vụ hay về cách làm, cách đưa sản phẩm ra thị trường…) hoặc tìm cách giải quyết một vấn đề mới (áp dụng các kết quả của nghiên cứu khoa học, công nghệ…). Chủ thể khởi nghiệp sáng tạo có thể là cá nhân, nhóm cá nhân hoặc tổ chức. Các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo không giống với các doanh nghiệp truyền thống vì mục đích lớn nhất của việc thành lập doanh nghiệp này dựa trên nền tảng đổi mới, sáng tạo và công nghệ rất cao. Khởi nghiệp sáng tạo gắn với rất nhiều rủi ro nhưng có thể đem lại những giá trị kinh tế rất lớn vì sản phẩm của các công ty khởi nghiệp có giá trị gia tăng cao và đặc biệt có khả năng nhân rộng được.
Nguyễn Viết Lợi [20] cho rằng, khởi nghiệp là khái niệm dùng để chỉ hoạt động khởi sự tạo dựng cơ nghiệp của một nhóm người nhờ sử dụng công nghệ đổi mới và các giải pháp sáng tạo để giải quyết những vấn đề bức thiết của xã hội, của thị trường và thu hút, hấp dẫn vốn đầu tư thiên thần nhằm tạo ra những doanh nghiệp lớn không giới hạn. Về ngoại diên, có sự giống nhau giữa chủ thể của hoạt động khởi sự kinh doanh, lập nghiệp và khởi nghiệp ở chỗ họ đều là những chủ thể khởi sự và chính vì vậy mới có nhầm lẫn giữa khởi sự kinh doanh với khởi nghiệp.
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về khởi nghiệp, song, giữa chúng có những điểm chung nhất định: Đều chỉ quá trình hoạt động của một cá nhân, tổ chức thành lập doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, qua đó giúp tăng quy mô doanh nghiệp lên vô hạn nhằm mục tiêu giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp thiết của xã hội và thị trường. Khởi nghiệp chính là quá trình thực hiện ý tưởng kinh doanh được hiện thực hóa dưới hình thức doanh nghiệp.
Vì thế, khái niệm “Khởi nghiệp” trong nghiên cứu này theo tác giả là một quá trình của cá nhân trong việc tìm kiếm, nắm bắt các cơ hội đầu tư, kinh doanh và huy động nguồn lực nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh để thành lập doanh nghiệp.
Theo tâm lý học Mácxit, “Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, xã hội”.[25]
Do vậy, theo quan điểm của tác giả, hoạt động khởi nghiệp là một quá trình tìm kiếm, nắm bắt các cơ hội đầu tư, kinh doanh và huy động nguồn lực của cá nhân nhằm hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh thông qua các hoạt động của bản thân.
- Khái niệm ý định khởi nghiệp
Bird [79] đã đưa ra định nghĩa về ý định “là một trạng thái tâm lý hướng sự chú ý của một cá nhân tới một đối tượng, mục tiêu, hành trình cụ thể để đạt được một cái kết quả có ý nghĩa với cá nhân đó”.
Theo Lanero và các cộng sự [131] “ý định được giả định để nắm bắt được các yếu tố tạo động lực ảnh hưởng đến hành vi, do đó, nó là một chỉ số thể hiện mức độ cố gắng, nỗ lực mà cá nhân thực hiện để có thể thực hiện được hành vi trong tương lai như mong muốn và đạt kết quả mong đợi, là trạng thái nắm bắt các yếu tố động lực ảnh hưởng tới việc thực hiện hành vi”.
Như vậy, ở đây có thể được hiểu ý định là trạng thái nắm bắt các cơ hội hay là động lực để thực hiện một hành vi nào đó trong tương lai.
Trong nghiên cứu của Katz [120] đã cho rằng “ý định khởi nghiệp là quá trình tìm kiếm thông tin để thực hiện mục tiêu thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp”.
Theo Thompson [171] đã đưa ra định nghĩa về ý định khởi nghiệp đó là “ý định khởi nghiệp là sự khẳng định của một cá nhân về dự định làm chủ một doanh nghiệp mới và xây dựng kế hoạch thực hiện hành động này tại một thời điểm nhất định trong tương lai”. Ý định khởi nghiệp là bước đầu tiên trong quá trình khám phá, sáng tạo, khai thác cơ hội để khởi nghiệp và thành lập doanh nghiệp mới.
Từ các khái niệm trên có thể hiểu ý định khởi nghiệp ở đây là cá nhân có những nhận thức nhất định về cơ hội kinh doanh và sẵn sàng hành động để thực hiện ý định đó trong tương lai.
- Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp
Khi nói đến khởi nghiệp là nói đến doanh nghiệp. Vậy DNKN là gì? Đến nay, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về DNKN.
Theo Low và cộng sự [136], DNKN là tổ chức tìm kiếm mô hình kinh doanh có khả năng tăng tốc phát triển, nhân rộng và mang lại lợi nhuận
Sarkar [154] cho rằng DNKN là doanh nghiệp có khả năng tăng tốc, DNKN cũng thường mang đặc điểm đổi mới sáng tạo (vì chúng thường có xu hướng phát triển hoặc hướng tới tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới cho thị trường). Những DNKN này là doanh nghiệp mới thành lập, ở nghĩa “đang phát triển” và đang hoạt động trên thị trường.
Theo Basso và cộng sự [75], doanh nghiệp khởi nghiệp là một công ty hoạt động nhằm giải quyết một vấn đề mà giải pháp (đối với vấn đề đó) chưa rõ ràng và sự thành công không được đảm bảo.
Eisemann và cộng sự [101], cho rằng doanh nghiệp khởi nghiệp là một định chế, tổ chức con người được thiết kế nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới trong các điều kiện cực kỳ không chắc chắn.
Theo Kollmann và cộng sự [124] cho rằng, DNKN là doanh nghiệp hoạt động dưới 10 năm, doanh nghiệp phát triển dựa trên nền tảng công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới và có sự tăng trưởng nhanh về nhân viên hoặc khách hàng.
Theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14, “Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh”. Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ nếu đáp ứng các điều kiện: (i) Có thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; (ii) Chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần”. [36] Như vậy, DNKN là một danh từ chỉ về các doanh nghiệp mới, được khởi đầu bởi một vài người sáng lập, từ những ý tưởng độc đáo hoặc từ các vấn đề xã hội đang gặp phải. Các DNKN có thể tận dụng nhu cầu thị trường để phát triển sản phẩm, dịch vụ hoặc một công nghệ nào đó mang tính khả thi. Khi mới bắt đầu thành lập, DNKN thường phải kêu gọi vốn tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau để phát triển kinh doanh.
Dựa trên những quan niệm được phân tích trên đây. Theo quan điểm của tác giả và phạm vi nghiên cứu của luận án được xây dựng: DNKN là một doanh nghiệp đang vận hành dưới 5 năm và chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán, được thành lập nhằm triển khai các ý tưởng kinh doanh trên cơ sở nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
- Khái niệm hệ sinh thái khởi nghiệp
Mason và Brown [141] đã định nghĩa hệ sinh thái khởi nghiệp như là “tổng hợp các mối liên kết chính thức và phi chính thức giữa các chủ thể khởi nghiệp (tiềm năng hoặc hiện tại), tổ chức khởi nghiệp (công ty, nhà đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần, hệ thống ngân hàng,…) và các cơ quan liên quan (trường đại học, các cơ quan nhà nước, các quỹ đầu tư công,…) và tiến trình khởi nghiệp (tỉ lệ thành lập doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp có tỉ lệ tăng trưởng tốt, số lượng các nhà khởi nghiệp,…) tác động trực tiếp đến môi trường khởi nghiệp tại địa phương”.
Theo Isenberg [118] “Hệ sinh thái khởi nghiệp là cách thức một quốc gia hay một thành phố thiết lập để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp tại địa phương”.
Works [182] cho rằng “Hệ sinh thái khởi nghiệp bao gồm một loạt các bên liên quan và cơ sở hạ tầng hỗ trợ mà họ cung cấp, được cung cấp sẵn trong khu vực nhất định để hỗ trợ những người bắt đầu một doanh nghiệp mới”.
Theo Startup Commons “Hệ sinh thái khởi nghiệp được hình thành bởi con người, các doanh nghiệp khởi nghiệp trong các giai đoạn phát triển khác nhau và nhiều loại tổ chức khác nhau tại một địa điểm đang tương tác với nhau như một hệ thống để tạo ra và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp khởi nghiệp mới”.
Tóm lại, hệ sinh thái khởi nghiệp (startup ecosystem/entrepreneurial ecosystem) với sự tập trung đông đảo các cá nhân có tinh thần khởi nghiệp, công ty hay DNKN và các bên liên quan khác (đóng vai trò hỗ trợ)…có mối quan hệ hữu cơ, cùng tồn tại và phát triển bền vững. Sức mạnh của hệ sinh thái khởi nghiệp tùy thuộc vào sự “gắn kết” chặt chẽ của các thành phần bên trong hệ sinh thái khởi nghiệp. Hệ sinh thái khởi nghiệp chính là một dạng nguồn lực vô cùng quan trọng và là yếu tố tác động thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp.
- Khái niệm thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp
Theo quan niệm phổ biến, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp chính là các phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Đây chính là các quan điểm, giải pháp và công cụ sử dụng để tác động lên chủ thể kinh tế – xã hội nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội lặp đi lặp lại, thực hiện những mục tiêu nhất định theo hướng đã xác định.
Theo từ điển tiếng Việt: “thúc đẩy là kích thích, tạo điều kiện, động lực cho hoạt động, phát triển mạnh hơn theo một hướng nhất định nào đó, thường là hướng tốt”.
Khi nghiên cứu về thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp quốc gia, Edquist [100] và Dunham và cộng sự [99] cho rằng thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp là một phạm trù cần có sự can thiệp của nhà nước, tác động tới sự thay đổi công nghệ, các hình thức đổi mới khác, chính sách công nghệ, chính sách phát triển vùng. Nhà nước hỗ trợ tạo ra môi trường khuyến khích những người có suy nghĩ vượt trội dễ dàng và thuận lợi để bắt đầu một hoạt động kinh doanh mới. Thông qua các chính sách của Nhà nước giúp quá trình bắt đầu kinh doanh sẽ dễ dàng hơn với chi phí thấp hơn. Đây cũng là điều kiện giúp phát triển ý tưởng kinh doanh mới hoặc một phát minh mới. Hay nói một cách tổng quát, Nhà nước sử dụng các chính sách nhằm tác động tới quá trình khởi nghiệp. [77] [82]
Trong nền kinh tế thị trường cần có sự quản lý của nhà nước nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể gặp phải. Nhà nước sử dụng công cụ chính sách để điều chỉnh các hành vi nhằm hướng đến mục tiêu phát triển chung [91]. Qua đó, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp được hiểu là những can thiệp của Nhà nước tới hoạt động khởi nghiệp của DNKN nhằm tạo môi trường thuận lợi hoặc có thể tài trợ trực tiếp để các doanh nghiệp nhanh chóng tiến hành các hoạt động khởi nghiệp trên cơ sở định hướng phù hợp với mục tiêu tổng thể.
Từ các khái niệm trên, theo quan niệm của tác giả, xét về góc độ quản lý kinh tế, thì thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp là các hoạt động của cơ quan Nhà nước của một quốc gia nhằm kích thích, tạo điều kiện, động lực để hoạt động khởi nghiệp diễn ra một cách thuận lợi, bao gồm việc tạo môi trường pháp lý, khuyến khích sự ra đời các ý tưởng khởi nghiệp, hiện thực hóa ý tưởng khởi nghiệp, cũng như giúp các DNKN vượt qua các khó khăn về vốn, thủ tục hành chính, kinh nghiệm, nhân lực, công nghệ…
Từ nội hàm khái niệm trên, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp trên phạm vi quốc gia sẽ bao hàm các nội dung để kích thích, tạo động lực, tạo điều kiện thì vai trò của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước các cấp từ việc xây dựng các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp cần phải hỗ trợ và nuôi dưỡng các ý tưởng khởi nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển và hỗ trợ các DNKN.
Các lý thuyết, đặc điểm và vai trò thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp
Lý thuyết nền kinh tế khởi nghiệp của Richard Catillon
Catillon [89] được coi là người đầu tiên xem xét ảnh hưởng của tinh thần khởi nghiệp đến nền kinh tế. Ông cho rằng tinh thần khởi nghiệp là luôn nằm trong tiềm thức của các doanh nhân. Nghiên cứu cũng chỉ ra chủ sở hữu tài sản là những người tiêu dùng chính, tất cả sản xuất trong nền kinh tế nhằm đáp ứng những mong muốn của họ. Trong khi đó, người lao động nhận tiền lương thường là cố định và các doanh nhân thu nhập thì thường không ổn định vì phải phụ thuộc vào thị trường, phụ thuộc vào số lượng sản phẩm bán ra. Các doanh nhân chịu trách nhiệm sản xuất, lưu hành và trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu của chủ sở hữu tài sản. Các doanh nhân sẽ hành động theo cơ hội chênh lệch về giá tức là sản xuất, mua các sản phẩm với giá thấp và bán ở những nơi giá cao. [112]
Catillon [89] khẳng định tinh thần khởi nghiệp có sức lan toả trong nền kinh tế, được bắt nguồn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuỗi cung ứng, từ việc sản xuất nguyên liệu thô đến phân phối bán lẻ các thành phẩm. Bên cạnh đó, vị trí địa lý cũng rất quan trọng đối với các quyết định đầu tư của các doanh nhân vì nó liên quan đến chi phí vận chuyển và giao dịch. Vì vậy, hoạt động khởi nghiệp là động lực cơ bản trong phát triển nền kinh tế, sự vắng mặt của các doanh nghiệp sẽ khiến cho hoạt động cung cấp các sản phẩm tới dân cư sẽ bị gián đoạn nếu không muốn nói là khó khăn [104].
Xã hội khởi nghiệp thường bắt đầu bởi các doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp tại các địa phương nhưng giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu như thúc đẩy thành lập các doanh nghiệp mới, quản lý và xử lý nước, chất thải…. Các doanh nghiệp này thường áp dụng các giải pháp sáng tạo trong địa phương và được nhân rộng ra các địa phương khác, tạo ra một mạng lưới lớn mạnh và vươn ra toàn cầu [187]. Do đó các DNKN có ý nghĩa sâu sắc trong hệ thống kinh tế, tạo ra những ngành công nghiệp mới, xác định mô hình kinh doanh mới và phân bổ nguồn lực xã hội một cách hợp lý hơn.
Đã có nhiều nghiên cứu về xã hội khởi nghiệp nhưng vẫn chưa đầy đủ như vai trò đối với nền kinh tế, tính logic trong các hoạt động khởi nghiệp xã hội [138], [141] nhưng tất cả đều cho rằng xã hội khởi nghiệp ở đây là các DNKN theo đuổi các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường bằng các hoạt động mạo hiểm, có nhiều rủi ro cao vì áp dụng những phương thức sản xuất kinh doanh mới [110]. Các DNKN trong xã hội khởi nghiệp sẽ là một tác nhân làm thay đổi nền kinh tế. Chính vì điều này mà chính phủ nhiều nước đã áp dụng các chính sách nhằm khuyến khích các DNKN, đây được coi là một cách tốt nhất để tạo nên sự đột phá trong nền kinh tế đất nước [141]. Các chuẩn mực xã hội ảnh hưởng đến mức độ của hành vi kinh doanh trong một quốc gia. Nếu cách nhìn nhận của xã hội về việc bắt đầu kinh doanh theo chiều hướng tích cực, thì mọi người sẽ có động lực đối với việc khởi nghiệp kinh doanh. Mặt khác, thái độ bất lợi trong xã hội có thể dẫn đến tinh thần hoạt động khởi nghiệp kinh doanh ở mức độ thấp. Trong nghiên cứu Schwab [157] đã đề cập đến “hiệu ứng đám đông”, tức là một xã hội khởi nghiệp sẽ là môi trường tốt để các DNKN hình thành và phát triển bởi đối với các doanh nhân khi mới chỉ có ý định khởi nghiệp nhưng bên cạnh họ có rất nhiều các doanh nhân khác đã và đang khởi nghiệp thành công. Tác động đặc biệt của các doanh nhân thành công, những người đã truyền bá kiến thức chuyên môn của họ thông qua mạng xã hội và sự công nhận của các nhà lãnh đạo đối với họ sẽ tạo ra một hình ảnh tích cực về các hoạt động tự doanh và khởi nghiệp [158]. Đây sẽ là nguồn động lực thúc đẩy để các doanh nhân vượt qua được tâm lý e ngại, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và đặc biệt là sự cảm thông, động viên của những người xung quanh khi gặp phải các vấn đề khó khăn trong khi khởi nghiệp.
Lý thuyết khởi nghiệp dựa trên nguồn lực
Các nguồn lực đầu vào là rất quan trọng để phát triển nền kinh tế khởi nghiệp. Dựa trên các nguồn lực mang đến nhiều cơ hội, tạo nên những lợi thế cạnh tranh cũng như tính bền vững của nền kinh tế. Đối với các DNKN, các nguồn lực sẽ giúp doanh nghiệp đạt được lợi nhuận, nhanh chóng chiếm được thị phần so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành [72][73]. Chính vì điều này, các địa phương sẽ tiến hành xây dựng và cung cấp các nguồn lực cần thiết cho các DNKN như hệ thống cơ sở hạ tầng, các trung tâm nghiên cứu, thậm chí tiếp cận tốt hơn với các tài nguyên thiên nhiên, ngoài ra còn cung cấp nguồn tài chính, mối quan hệ với các tổ chức phi chính phủ để giúp các DNKN thực hiện được ý định sản xuất kinh doanh mới đem lại hiệu quả hơn, hấp dẫn hơn so với các địa phương khác. [85]
DNKN phải đối mặt với các rủi ro lớn khi đầu tư vào công nghệ mới, quy mô nhỏ, lượng vốn ít, điều này rất khó có thể cạnh tranh với các công ty lớn trong và ngoài nước. Với các nguồn lực được hỗ trợ, DNKN sẽ giảm được rủi ro, giảm chi phí sản xuất. Bên cạnh đó, những địa phương có nguồn lực tốt như công nghệ, chất lượng lao động, các tài nguyên thiên nhiên quý hiếm… sẽ giúp các DNKN tạo ra những sản phẩm mới, hiệu quả kinh tế cao. [95]Lý thuyết khởi nghiệp sáng tạo của Schumpeter
Theo Schumpeter [156] phát triển kinh tế cần phải đòi hỏi có kiến thức kinh doanh, do đó, đổi mới sáng tạo là một hình thức quan trọng trong kinh doanh và trong đó là lợi nhuận kinh doanh. Ông cũng cho rằng đổi mới sáng tạo là một hành động của tinh thần kinh doanh, trong khi người thực hiện đổi mới là các doanh nhân.
Nền kinh tế thay đổi về chất lượng thông qua các hoạt động của doanh nhân. Có những thay đổi trong việc thoả mãn các nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng, công nghệ, tổ chức, quản lý. Hoạt động đổi mới sáng tạo tạo ra cơ hội cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với chi phí sản xuất thấp hơn. Khi các doanh nhân đã sẵn sàng đổi mới và bất chấp những khó khăn gặp phải thì đây là cơ hội cho sự phát triển của nền kinh tế theo hướng hiện đại. [165]
Schumpeter [156] đã chỉ ra ba yếu tố quan trọng để khởi nghiệp thành công đó là: ý chí thành lập doanh nghiệp mới, ý chí chinh phục, ở đây là chinh phục những công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, vượt qua những khó khăn… cuối cùng đó là niềm vui và sự hài lòng khi thực hiện một cái mới.
Với vai trò rất lớn của các DNKN, cũng như nắm bắt được động lực khởi nghiệp của các doanh nhân thì chính quyền địa phương cần đưa ra các biện pháp thiết thực nhằm phát huy tinh thần khởi nghiệp, tạo môi trường thực hiện các ý tưởng khởi nghiệp. Elkington và Hartigan [102] đã đưa ra một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động khởi nghiệp như: hỗ trợ nghiên cứu triển khai các ý tưởng mới, hỗ trợ về thuế và các chính sách khác để các DNKN có thể vượt qua được những khó khăn ban đầu.
Lý thuyết thiết lập mục tiêu được Locke và Latham [135] đưa ra dựa trên 400 nghiên cứu về việc thiết lập mục tiêu và thực hiện mục tiêu. Theo lý thuyết này, có hai yếu tố quan trọng để đưa ra một quyết định: giá trị và ý định. Một mục tiêu được định nghĩa là những gì cá nhân đang cố gắng thực hiện một cách có ý thức. Đối với những mục tiêu nhiều thách thức thì cần nhiều nguồn lực đầu vào, sự nỗ lực và kiên trì thực hiện. Việc hoàn thành mục tiêu có thể dẫn đến sự hài lòng và có thêm động lực, ngược lại nếu mục tiêu không được hoàn thành sẽ gây ra thất vọng và giảm động lực.
Để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp thì trước hết giúp các DNKN đạt được các mục tiêu đề ra. Khi các nhà khởi nghiệp hình thành ý tưởng, thì ý tưởng đó cần được nuôi dưỡng với sự hỗ trợ của các bên liên quan như: các công ty lớn, các trường đại học, dịch vụ hỗ trợ, vườn ươm khởi nghiệp… [97]. Tại đây các chuyên gia trong các lĩnh vực sẽ tiến hành phân tích, đánh giá tính khả thi của mục tiêu đề ra. Nếu mục tiêu tốt, đó sẽ là một cơ hội mới cho các DNKN và cũng là cơ hội cho các đối tác. Điều này sẽ giúp tránh thực hiện các mục tiêu không rõ ràng, lãng phí thời gian và nguồn lực. Bên cạnh đó, dưới sự khuyến khích của nhà nước: hỗ trợ hành chính, xây dựng khung pháp lý vững chắc, tạo điều kiện cho các bên cũng là điều kiện tốt để hình thành các ý tưởng mới và là động lực giúp các nhà khởi nghiệp có thêm quyết tâm thực hiện ý tưởng đó. [153]
- Đặc điểm của thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp
Thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đều tiềm ẩn rủi ro và thực tế chỉ ra rằng, không phải tất cả các hoạt động khởi nghiệp đều thành công. Do đó, trước khi tập trung vào việc làm cách nào để khởi nghiệp, cần chắc chắn rằng, đã nắm bắt được tất cả các đặc điểm của hoạt động khởi nghiệp.
Tạo tính đột phá: Khởi nghiệp là thực hiện những dự án sinh ra từ một ý tưởng đột phá. Các DNKN tạo ra giá trị cho khách hàng bằng cách cung cấp một sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn toàn mới thay đổi cách sống, giải quyết các nhu cầu liên quan đến địa phương, đây là nền tảng quan trọng để chuyển đổi nền kinh tế [77]. Do vậy, chính quyền luôn tìm cách nuôi dưỡng các ý tưởng khởi nghiệp, biến “văn hoá khởi nghiệp” là mục tiêu ưu tiên hàng đầu để tạo nền tảng vững chắc của chu kỳ phát triển nền kinh tế mới trong tương lai. [76]
Khả năng tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế: Các DNKN có vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng của nền kinh tế. Các doanh nghiệp này tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, mức độ tăng trưởng cao, điều này dẫn đến một lượng lớn lao động có được việc làm, biến những người làm việc không có kỹ năng thành những người có kỹ năng [74]. DNKN sẽ là nguồn gốc của sự đổi mới cho nền kinh tế bằng các dự án sản xuất được triển khai và sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện có. Từ đó, thu nhập quốc dân các quốc gia tăng lên và chính phủ sẽ nhân rộng mô hình sản xuất mới và giúp nền kinh tế có những bước đột phá mới. Chính phủ có thêm điều kiện để cung cấp nhiều chính sách hỗ trợ hơn cho các DNKN. [83]
Hỗ trợ DNKN thông qua các chính sách: Các DNKN thường chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Tuy nhiên các DNKN thường phải đối mặt với sự thất bại khi giới thiệu một sản phẩm hoặc dịch vụ mới [178]. Do vậy, để thúc đẩy các DNKN rất cần các chính sách hỗ trợ để giảm thiểu rủi ro. Các chính sách không chỉ thực hiện một mục tiêu cụ thể mà cần có tính toàn diện, liên kết chặt chẽ với các chính sách khác để tạo ra một “hệ thống khởi nghiệp quốc gia” và “hệ sinh thái khởi nghiệp”. Tất cả các biện pháp trên nhằm tạo điều kiện cho các DNKN, đây như là chất xúc giúp đổi mới nền kinh tế. [151]
Gắn liền với nghiên cứu và phát triển công nghệ: Các DNKN tạo ra những ý tưởng sản xuất kinh doanh mới dựa trên sự phát triển của KHCN. Các doanh nghiệp sẽ tiến hành nghiên cứu, trao dồi các ý tưởng và định hình ý tưởng để biến những ý tưởng đó trở thành hiện thực [82]. Hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Bằng cách sử dụng các chính sách hỗ trợ, tạo mạng lưới những người có cùng chung ý tưởng, chính quyền địa phương sẽ giúp các DNKN cùng thúc đẩy, chia sẻ ý tưởng và nguồn cảm hứng với những nghiên cứu mới. Ngoài ra, các DNKN sẽ giảm được các rủi ro khi phát triển ý tưởng mới, nhanh chóng đưa công nghệ mới áp dụng vào thực tế. [87]
- Vai trò thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp
Thúc đẩy khởi nghiệp là một bài toán tổng thể trên nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội của một quốc gia từ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, xóa đói giảm nghèo, môi trường, y tế,… Theo đó, từ những ý tưởng khởi nghiệp của doanh nhân là hoài bão, sức mạnh phát huy tốt nhất mọi tiềm năng của bản thân và giúp góp phần cống hiến cho xã hội. Đó có thể là một ý tưởng mới làm thay đổi cuộc sống con người và dần dần thay đổi nền kinh tế, cần phải khuyến khích và phát triển trên phạm vi quốc gia. Chính vì vậy, vai trò thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp là:
Góp phần tăng trưởng kinh tế. Các DNKN góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế [65] [88] [164]. Bayineni [77] cho rằng khởi nghiệp là chìa khóa của tăng trưởng kinh tế và kinh doanh là yếu tố quyết định trong sự phát triển kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế với những ngành có nhiều doanh nghiệp tham gia, các doanh nghiệp luôn tìm cách để thúc đẩy cạnh tranh, củng cố và nâng cao vị trí của mình. Theo Carree và Thurik [88] đã chỉ ra rằng, thông qua việc khuyến khích phát triển DNKN sẽ hoàn thiện dần cơ chế chính sách cũng như cải tạo môi trường kinh doanh, phát triển những ý tưởng hiệu quả cho nền kinh tế, từ đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Tạo ra tính đa dạng trên thị trường. Với việc đa dạng ý tưởng khởi nghiệp góp phần tạo ra những sản phẩm mới mang tính đột phá. Nhờ quy mô nhỏ mà các DNKN có khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với nhu cầu thị trường. Các DNKN cạnh tranh sẽ phải đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng và các sản phẩm mới tạo nên tính khác biệt trên thị trường. [83] [90]
Tăng tốc độ áp dụng công nghệ mới trong sản xuất. Việc gia tăng DNKN dẫn đến gia tăng sự cạnh tranh, các DNKN muốn cạnh tranh phải luôn luôn thay đổi, tìm cách đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi phí đầu vào, chi phí sản xuất. DNKN luôn tiên phong trong việc tìm tòi những phương thức sản xuất mới cho nền kinh tế hiện đại [132]. Những sáng kiến đôi khi không được áp dụng vào thực tiễn nhưng đã được các doanh nghiệp lớn mua lại để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, đây là nền tảng cho những công nghệ mới trong tương lai. [103] [127]
Góp phần sử dụng tốt vốn tri thức và năng lực của con người. Việc thành lập DNKN là cơ sở cho gia tăng khai thác, vận dụng các tri thức mới một cách hiệu quả. Một cá nhân có thể khởi nghiệp cần có đầy đủ năng lực phẩm chất, tầm nhìn chiến lược. Đây cũng là môi trường để cá nhân học hỏi tiếp thu, rút ra các bài học đồng thời cũng sử dụng tốt khả năng vốn có của bản thân. Sự gia tăng trao đổi giữa các DNKN tạo cơ sở cho các hoạt động đổi mới và phát triển công nghệ. [70] [149]
Nuôi dưỡng nguồn thu, tạo cơ hội phát triển kinh tế đột phá trong tương lai. Với bản chất khởi ngiệp là quá trình chuẩn bị, hoàn thiện sản phẩm dịch vụ và mô hình kinh doanh, đóng góp lớn nhất của DNKN là giải quyết việc làm cho người lao động, chứ chưa thể đóng góp nhiều cho GDP hay ngân sách nhà nước như doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp hoạt động lâu năm. Tuy nhiên, các DNKN là khởi nguồn của các nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong tương lai. Chính yếu tố công nghệ của DNKN giúp các doanh nghiệp có thể nhân rộng nhanh chóng với chi phí thấp, đem lại lợi nhuận rất lớn so với doanh nghiệp truyền thống. [77] [82]
MÃ ĐỀ TÀI 005