Lý luận về kiểm soát hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ

Khái niệm, đặc điểm kiểm soát hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ

Theo nghĩa chung nhất trong từ điển Tiếng Việt 1996 của Viện Ngôn ngữ học, “Kiểm soát” có nghĩa là “xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định trong phạm vi quyền hành của mình”.84 Tuy nhiên, dưới góc độ của các luật chuyên ngành, khái niệm và phạm trù kiểm soát được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau.

Dưới khía cạnh pháp luật hải quan, “kiểm soát” cụ thể là kiểm soát hải quan85 được hiểu là hoạt động nghiệp vụ hải quan được thực hiện thông qua các biện pháp

  • Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt 1996, NXB Đà Nẵng, tr. 504.
  • Khoản 11 Điều 4 Luật Hải quan 2014 quy định: Kiểm soát hải quan là biện pháp tuần tra, điều tra, xác minh hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do cơ quan hải quan áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và hành vi khác vi phạm pháp luật về hải quan như: tuần tra, điều tra, xác minh hoặc các biện pháp nghiệp vụ khác để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và hành vi khác vi phạm pháp luật về Hải quan. Hoạt động này chủ yếu do lực lượng kiểm soát chống buôn lậu của Hải quan thực hiện song song với quy trình thông quan hàng hóa XNK và không bao gồm hoạt động kiểm tra, giám sát hàng hoá XNK trước, trong và sau thông quan. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp cận hoạt động kiểm soát theo nghĩa này sẽ không đánh giá được toàn bộ quá trình kiểm soát hàng hoá XNK nói chung và hàng hoá XNK giả mạo về SHTT nói riêng của Hải quan.

Tiếp cận dưới góc độ pháp luật SHTT, kiểm soát hàng hóa XK, NK liên quan đến SHTT là biện pháp hỗ trợ Hải quan xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT theo yêu cầu của chủ thể quyền SHTT. Do đó, kiểm soát hàng hoá XNK liên quan đến SHTT được hiểu là biện pháp do chủ thể quyền SHTT và Hải quan thực hiện đối với hàng hoá XNK nhằm phát hiện, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT tại biên giới. Việc kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT là biện pháp có nội hàm rộng hơn một hoạt động nghiệp vụ của Hải quan. Để áp dụng biện pháp này, hải quan không chỉ thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, mà còn thực hiện các hoạt động cần thiết khác theo chức năng, nhiệm vụ trong thông quan hàng hóa XNK để kiểm soát hàng hoá XNK giả mạo về SHTT tại biên giới như: xử lý vi phạm, phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan và chủ thể quyền, hợp tác quốc tế, tuyên truyền phối hợp với các chủ thể quyền SHTT,…

Kiểm soát hàng hoá XNK xâm phạm quyền SHTT không phải là một biện pháp bảo vệ quyền SHTT độc lập, mà thực chất là biện pháp mang tính hỗ trợ để Hải quan xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính. Biện pháp này là cơ sở để cơ quan hải quan xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính. Thông qua kiểm soát hàng hoá XK, NK liên quan đến SHTT, cơ quan hải quan phát hiện hàng hoá xâm phạm quyền và xác định được hành vi xâm phạm quyền SHTT, hàng hoá xâm phạm quyền SHTT. Trên cơ sở đó, Hải quan áp dụng biện pháp hành chính để xử lý các vụ việc xâm phạm quyền.

Việc kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT của Hải quan được thực hiện thông qua các biện pháp: kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT và tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT. Hai biện pháp này tương đối độc lập với nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng. Biện pháp kiểm tra, giám sát hàng hóa XNK giúp Hải quan phát hiện hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về SHTT và thông báo cho chủ thể quyền đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan. Mặt khác, quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan cho hàng hoá nghi ngờ giả mạo về SHTT là kết quả của việc thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát đối với hàng hoá XNK trước đó. Hải quan có thể áp dụng đồng thời 02 biện pháp này hoặc áp dụng độc lập với nhau. Chủ thể quyền SHTT có thể chỉ yêu cầu kiểm tra, giám sát hàng hoá XNK mà không yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan khi được Hải quan thông báo hàng hóa nghi ngờ giả mạo về SHTT. Hoặc trước đó, chủ thể quyền không có đơn yêu cầu Hải quan kiểm soát về SHTT, nhưng khi có thông tin về một lô hàng cụ thể nghi ngờ giả mạo về SHTT thì họ có quyền yêu cầu Hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan xác minh và xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT để bảo vệ quyền lợi của mình.

Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, kiểm soát được hiểu dưới góc độ pháp luật về SHTT. Do đó, theo NCS, “Kiểm soát hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ là biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ do cơ quan hải quan thực hiện thông qua các hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu giả mạo về sở hữu trí tuệ, xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới”.

So với các biện pháp bảo vệ quyền SHTT khác, biện pháp kiểm soát hàng hoá XK, NK liên quan đến SHTT là biện pháp riêng có mang tính đặc thù, do một cơ quan duy nhất có chức năng kiểm tra, giám sát và kiểm soát hàng hoá XNK thực hiện (cơ quan hải quan). Biện pháp này thực hiện chủ yếu tại khu vực biên giới và/hoặc những khu vực có hàng hoá XNK trong lãnh thổ quốc gia được xác định là địa bàn hoạt động hải quan. Đối tượng chịu sự kiểm soát là hàng hoá XNK qua biên giới và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động XNK. Ưu điểm của biện pháp này là đảm bảo phát hiện, ngăn chặn nhanh chóng, kịp thời các hành vi xâm phạm. Vụ việc xử lý về hành vi xâm phạm quyền được giải quyết trong thời gian ngắn, giúp giảm thời gian, chí phí tham gia giải quyết vụ việc của các bên liên quan. Tuy nhiên, chế tài áp dụng đối với người có hành vi xâm phạm là các chế tài hành chính nhiều trường hợp không đủ sức răn đe, nên khả năng tái phạm cao. Mặc khác, vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra cho chủ thể quyền và người tiêu dùng chưa được giải quyết.

Kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT có đặc trưng pháp lý cơ bản sau:

Thứ nhất, về phạm vi kiểm soát

Phạm vi về không gian và thời gian kiểm soát hàng hoá XNK giả mạo về SHTT cũng giống như phạm vi không gian và thời gian bảo vệ quyền SHTT tại biên giới. Biện pháp kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT do cơ quan hải quan thực hiện trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan và chỉ được thực hiện trong khoảng thời gian các đối tượng quyền SHTT đang được bảo hộ.

Hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT trong quá trình làm thủ tục hải quan được áp dụng đối với mọi loại hình XNK bao gồm: XNK thương mại (nhập kinh doanh tiêu dùng, tạm nhập – tái xuất, tạm xuất – tái nhập, chuyển cửa khẩu, sản xuất xuất khẩu) và XNK phi thương mại (quà biếu, quà tặng, hành lý của hành khách xuất nhập cảnh, hàng hóa thuộc diện miễn thuế).

Thứ hai, về chủ thể kiểm soát

Từ đặc thù về phạm vi và đối tượng kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT tại biên giới, việc kiểm soát được thực hiện trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan và đối tượng kiểm soát chủ yếu là toàn bộ hàng hoá XNK qua lại biên giới. Do đó, Hải quan với vị trí, vai trò và chức năng được pháp luật quy định là cơ quan thực hiện hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT qua lại các cửa khẩu biên giới.

Thứ ba, về đối tượng kiểm soát

  • Đối tượng kiểm soát là hàng hoá giả mạo SHTT được thực hiện đối với mọi hàng hoá XNK qua biên giới, trừ một số trường hợp ngoại lệ do pháp luật của từng quốc gia quy định.
  • Hoạt động của các tổ chức, cá nhân liên quan đến XNK hàng hoá qua biên giới cũng thuộc đối tượng kiểm soát liên quan đến hàng hóa giả mạo về SHTT của Hải quan. Họ trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia các hoạt động XNK hàng hóa. Trong đó, trọng tâm kiểm soát là chủ thể này XK, NK các loại hàng hóa mang đối tượng quyền SHTT đang được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam.

Bằng việc kiểm soát hoạt động của các đối tượng này, Hải quan có thể thu thập các thông tin liên quan đến hàng hoá giả mạo SHTT tại biên giới, phân tích và đánh giá để xác định các đối tượng trọng điểm là các tổ chức, cá nhân có khả năng thực hiện các hoạt động xâm phạm quyền SHTT; xác định các mặt hàng trọng điểm có nguy cơ giả mạo về SHTT để chủ động ngăn chặn, bắt giữ và xử lý kịp thời.

Thứ tư, về nội dung kiểm soát

Hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo SHTT của cơ quan hải quan gắn liền với quá trình thực hiện thủ tục tục hải quan cho hàng hoá XNK. Theo đó, nội dung kiểm soát tập trung chủ yếu liên quan đến hàng hoá, người khai hải quan và phương tiện vận chuyển hàng hoá XNK, cụ thể như sau:

  • Kiểm soát hồ sơ hải quan, các chứng từ, tài liệu liên quan đến hàng hoá XNK và kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải vận chuyển hàng hoá XNK nhằm thu thập thông tin về hàng hoá và tổ chức, cá nhân XK, NK hàng hoá. Trên cơ sở phân tích thông tin và đánh giá rủi ro để phát hiện hàng hoá XNK có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT, hàng hoá giả mạo về SHTT.
  • Hải quan thực hiện giám sát đối với hàng hoá hàng hoá giả mạo về SHTT đảm bảo tính nguyên trạng, giám sát việc bảo quản, lưu giữ, xếp dỡ, vận chuyển, sử dụng hàng hóa XK, NK có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT thuộc đối tượng quản lý hải quan.
  • Trường hợp phát hiện hàng hoá XNK có dấu hiệu hàng hoá giả mạo về SHTT, Hải quan quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm theo yêu cầu của chủ thể quyền SHTT. Thực chất mục đích của việc tạm dừng này nhằm kéo dài thời hạn làm thủ tục hải quan để chủ thể quyền SHTT và Hải quan có thời gian thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng, xác định tình trạng pháp lý của hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT. Trên cơ sở đó, xử lý hành vi xâm phạm quyền và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn trong trường hợp cần thiết.

Hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT với kiểm soát hàng hoá xâm phạm quyền SHTT có sự khác biệt, chúng ta có thể thấy qua nội dung sau: Dưới góc độ lý thuyết, hàng hoá giả mạo về SHTT là một dạng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT nhưng là hàng hoá xâm phạm quyền SHTT ở mức cao nhất. Do đó, nhìn về tổng thể hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT và kiểm soát hàng hoá xâm phạm quyền SHTT tương đồng về phạm vi không gian kiểm soát, thời gian kiểm soát, chủ thể kiểm soát, các biện pháp kiểm soát, loại hình hàng hoá XNK được kiểm soát và nội dung kiểm soát. Tuy nhiên, phạm vi hàng hoá XNK thuộc đối tượng của hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT hẹp hơn so với hoạt động kiểm soát hàng hoá xâm phạm quyền SHTT. Bởi vì, đối tượng kiểm soát hàng hoá xâm phạm quyền SHTT là toàn bộ hàng hoá XNK xâm phạm quyền SHTT, bao gồm cả hàng hoá giả mạo về SHTT. Hàng hóa giả mạo về SHTT là một phần của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT.

Trình tự thủ tục kiểm soát 02 loại hàng hoá nêu trên là giống nhau. Tuy nhiên, do tính chất và mức độ xâm phạm quyền SHTT khác nhau nên có một số điểm khác biệt, điển hình như:

  • Đối với hàng hoá xâm phạm quyền SHTT, Hải quan thụ lý theo thủ tục hành chính trên cơ sở kết luận giám định về SHTT, ý kiến các cơ quan chuyên môn về SHTT và các tài liệu, chứng cứ do chủ thể quyền cung cấp. Hải quan chuyển vụ việc cho cơ quan tố tụng dân sự nếu chủ thể quyền SHTT lựa chọn xử lý bằng biện pháp dân sự.
  • Tuy nhiên đối với hàng hoá giả mạo về SHTT, nếu có cơ sở để khẳng định hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm là hàng hoá giả mạo về SHTT, Hải quan áp dụng biện pháp hành chính (biện pháp ngăn chặn) mạnh hơn so với hàng hoá xâm phạm quyền

SHTT là quyết định tạm giữ ngay hàng hoá vi phạm86 mà không cần thiết phải thực hiện giám định về SHTT. Bởi vì, các căn cứ để xác định hàng hoá XNK giả mạo về SHTT là rõ ràng và hiển nhiên như: mẫu đối tượng quyền SHTT bị xem xét có thể so sánh bằng mắt thường mang đặc điểm, dấu hiệu và hình thức thể hiện trùng với đối tượng quyền SHTT đang được bảo hộ; hàng hoá đang bị xem xét trùng với danh mục hàng hoá đang được bảo hộ thuộc phạm vi bảo hộ của đối tượng quyền SHTT.

Mặt khác, nếu việc kiểm soát hàng hoá xâm phạm quyền SHTT chỉ dừng lại ở một trong hai thủ tục hành chính hoặc thủ tục tố tụng dân sự. Đối với hàng hoá giả mạo về SHTT, ngoài việc kiểm soát theo hai thủ tục trên, còn có thể bị xem xét xử lý theo thủ tục tổ tụng hình sự nếu có dấu hiệu tội phạm.

Nguyên tắc kiểm soát hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ

Xuất phát từ bản chất quyền tài sản của quyền SHTT và nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền SHTT và xã hội, việc áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này đã được pháp luật ghi nhận, bao gồm các nguyên tắc điển hình sau:

Một là, chủ thể quyền SHTT được bảo hộ theo quy định của pháp luật về SHTT mới có quyền đề nghị cơ quan Hải quan áp dụng các biện pháp kiểm soát hàng hóa XK, NK có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT (bao gồm cả giả mạo về SHTT). Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguồn gốc hình thành quyền SHTT, là quyền dân sự của tổ chức, cá nhân đối với TSTT của mình. Bảo vệ quyền SHTT bằng việc kiểm soát đối với hàng hoá XNK có chứa các đối tượng quyền SHTT trước hết là quyền của chủ sở hữu đối với các tài sản đó. Để thực hiện quyền tự bảo vệ hoặc đề nghị quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền tài sản của mình thì điều kiện tất yếu là tài sản đó phải thuộc sở hữu hợp pháp của người nắm giữ quyền.

Hai là, Hải quan chỉ tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK khi chủ thể quyền SHTT đáp ứng một số điều kiện nhất định để chứng minh rằng việc đề nghị dừng thông quan hàng hoá nghi ngờ giả mạo là có căn cứ. Các điều kiện này bao gồm: chủ thể quyền hoặc hoặc người được ủy quyền hợp pháp có đơn đề nghị, bằng chứng về sở hữu hợp pháp quyền SHTT, bằng chứng về việc vi phạm quyền SHTT và đã nộp một khoản tiền hoặc chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm bồi thường thiệt hại và các chi phí phát sinh do việc đề nghị tạm dừng làm thủ tục

  • Tiết a.2 khoản 4 Điều 10 Thông tư số 13/2015/TT-BTC ngày 30/1/2015 đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 13/2020/TT-BTC ngày 06/3/2020 của Bộ Tài chính quy định về kiểm tra, giám sát, tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá XK, NK có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT; kiểm soát hàng giả và hàng hoá xâm phạm quyền SHTT.

Nguyên tắc này bắt nguồn từ việc bảo vệ lợi ích của chủ thể quyền SHTT, trước hết là quyền tài sản bị xâm phạm. Tuy nhiên, khi đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá XNK thì tổ chức, cá nhân có hàng hoá sẽ bị thiệt hại về kinh tế tương ứng. Họ sẽ phải gánh chịu các chi phí do việc tạm dừng làm thủ tục hải quan gây ra như: chi phí thuê kho bãi bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển, thuê nhân viên, phạt hợp đồng, lãi ngân hàng,…). Do vậy, để đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền và người sở hữu hàng hoá XNK, chủ thể quyền ngoài việc có quyền yêu cầu cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan thì phải có nghĩa vụ tương ứng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu hàng hoá như là điều kiện đảm bảo quyền và lợi ích của cả hai bên.

Ba là, việc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT (bao gồm cả hàng hoá giả mạo về SHTT) không áp dụng đối với hàng hóa phi thương mại.

Nguyên tắc này được đưa ra xuất phát từ bảo vệ quyền SHTT là bảo vệ quyền độc quyền được hưởng lợi các lợi ích vật chất của chủ thể quyền từ việc khai thác, sử dụng các đối tượng quyền SHTT. Bản chất của hàng hoá phi thương mại là các loại hàng hoá phục vụ nhu cầu cá nhân, nó không đưa vào kênh phân phối để tiêu thụ nhằm mục đích lợi nhuận. Do đó, nhóm hàng hoá phi thương mại gây ra thiệt hại không đáng kể cho chủ thể quyền. Tính phi thương mại còn thể hiện thông qua chính sách thuế được áp dụng đối với nhóm nhóm hàng này: thuộc đối tượng được miễn thuế, không phải nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế.

 Nội dung, vai trò và xu hướng điều chỉnh pháp luật kiểm soát hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ

Nội dung pháp luật về kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT bao gồm: thẩm quyền kiểm soát, chế tài xử lý hàng hoá giả mạo về SHTT, các biện pháp kiểm soát và quy trình kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT.

Thẩm quyền kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT trực tiếp nghiên cứu phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hải quan trong kiểm soát hàng hoá XK, NK giả mạo về SHTT. Các Điều ước quốc tế và văn bản pháp luật của Việt Nam xác định thẩm quyền kiểm soát của Hải quan thông qua các quy định về phạm vi thẩm quyền theo loại hình hàng hoá XNK và không tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với các loại hàng hoá phi thương mại. Trong đó, việc thực hiện thẩm quyền mặc nhiên của Hải quan khi ngăn chặn và xử lý hàng hoá giả mạo về SHTT là thẩm quyền đặc thù riêng có của Hải quan so với các cơ quan chức năng khác có thẩm quyền và trách nhiệm kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT.

Chế tài xử lý hàng hoá giả mạo về SHTT của Hải quan cũng có sự khác biệt so với các cơ quan thực thi quyền SHTT khác. Theo đó, Hải quan chỉ áp dụng một số biện pháp phù hợp với đặc thù hàng hoá XNK tại khu vực biên giới.

Hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT được Hải quan thực hiện thông qua nhiều biện pháp. Bên cạnh việc áp dụng các biện pháp quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực Hải quan, Hải quan áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát và tạm dừng làm thủ tục hải quan khi phát hiện hàng hoá có dấu hiệu nghi ngờ giả mạo về SHTT.

Đáng chú ý là hai biện pháp này chỉ được thực hiện khi có đề nghị từ phía các chủ thể quyền SHTT trừ trường hợp thực hiện thẩm quyền mặc nhiên. Hải quan thực hiện các biện pháp kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT trước hết nhằm hiện thực hoá quyền được bảo vệ quyền tài sản của các chủ thể quyền SHTT.

Các biện pháp kiểm soát hàng hoá xâm phạm quyền SHTT nói chung, hàng hoá giả mạo về SHTT nói riêng tại các Điều ước quốc tế liên quan chỉ đề cập đến biện pháp đình chỉ hay tạm dừng thông quan. Khi nội luật hoá các quy định của Điều ước quốc tế về vấn đề này, một số quốc gia xác định bao gồm cả biện pháp kiểm soát thường xuyên hàng hoá XNK có nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT theo đề nghị của thủ thể quyền như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam.

Quy trình kiểm soát: Cơ quan hải quan ngoài việc thực hiện quy trình thủ tục thông quan hàng hoá, còn thực hiện các quy trình chuyên biệt để phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời hàng hoá giả mạo về SHTT như: Quy trình tiếp nhận và xử lý Đơn yêu cầu kiểm soát hàng hoá XK, NK giả mạo về SHTT và Quy trình kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT trong quá trình làm thủ tục hải quan.

Tiếp nhận yêu cầu kiểm soát là cơ sở để Hải quan thực hiện các biện pháp kiểm soát hàng hoá XNK giả mạo về SHTT hiệu quả. Quy trình kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT được thực hiện đồng thời với quy trình thông quan hàng hoá đảm bảo tuân thủ các quy định về chính sách và thuế XNK, đồng thời phát hiện kịp thời hàng hoá xâm phạm quyền SHTT.

  1. Vai trò kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT
  • Dưới góc độ xã hội, kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, đảm bảo an toàn sức khỏe cộng đồng và quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Với việc ngăn chặn hàng hóa giả mạo về SHTT từ nước ngoài vào nội địa, các doanh nghiệp, các nhà sản xuất chính hãng trong nước sẽ tin tưởng và yên tâm, sản phẩm hàng hóa do mình làm ra sẽ không bị hàng hóa giả mạo NK từ nước ngoài chiếm lĩnh thị phần bất hợp pháp. Họ sẽ có động lực tiếp tục sáng tạo để tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng cao.
  • Đối với hoạt động quản lý nhà nước về Hải quan, kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT sẽ giúp ngăn chặn được hàng hoá giả mạo về SHTT ngay khi đến cửa khẩu. Đồng thời, hành vi xâm phạm quyền SHTT xảy ra thường xuyên ở tất cả các địa bàn do cơ quan hải quan quản lý, một trong những yêu cầu đặt ra đối với các vi phạm pháp luật về Hải quan là phải nhanh chóng và kịp thời vì nếu chậm trễ thì chỉ trong một thời gian rất ngắn các đối tượng vi phạm sẽ đưa hàng hoá vi phạm thoát khỏi tầm kiểm soát của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
  • Đối với chủ thể quyền, kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT tại biên giới sẽ bảo đảm việc việc toàn quyền khai thác và thụ hưởng lợi ích kinh tế từ TSTT, ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền, thúc đẩy sự phát triển và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hoạt động này giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, mở rộng, chiếm lĩnh thị trường và gia tăng lợi nhuận.
  1. Xu hướng điều chỉnh pháp luật kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT

Với xu hướng hội nhập quốc tế về kinh tế và đầu tư, đặc biệt là về SHTT đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT của Hải quan phải hướng tới đạt được các yêu cầu và mục tiêu đặt ra tại các Nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Chúng ta có thể thấy rõ qua nội dung sau:

Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 25/4/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” đã đề ra nhiệm vụ rà soát, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật để bảo đảm sự tương thích giữa quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam với các FTA thế hệ mới, đặc biệt là về SHTT.

Các cam kết về SHTT trong các FTA thế hệ mới gần đây như: EVFTA, CPTPP, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực – RCEP, có mức độ mở cửa sâu, phạm vi các vấn đề điều chỉnh đa dạng. Trong đó, quyền SHTT đã nâng cao mức bảo hộ vượt bậc so với Hiệp định TRIPS. Việc đặt ra hàng loạt các tiêu chuẩn cao về bảo hộ và thực thi quyền SHTT của các FTA thế hệ mới đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật SHTT. Theo đó, để phù hợp với định hướng trên cần sửa đổi, bổ sung Luật Hải quan và các văn bản pháp luật liên quan tạo cơ sở pháp lý để Hải quan kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT tại biên giới.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ SHTT”, “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền SHTT”. Do đó, hoàn thiện quy định về kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT của Hải quan là cần thiết, nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc hoàn thiện thể chế SHTT; khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật SHTT cũng như những bất cập nảy sinh giữa các quy định của Luật SHTT với các văn bản quy phạm pháp luật khác, đặc biệt là Luật Hải quan; thể chế hóa, nội luật hóa các cam kết để phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó hoàn thiện thể chế về SHTT theo hướng quyền SHTT được bảo vệ và thực thi hiệu quả.

Nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT tại biên giới của Hải quan theo hướng xem xét mở rộng phạm vi được xác định là xâm phạm quyền SHTT kèm theo các chế tài tương ứng. Các quy định về kiểm soát hàng hoá giả mạo về SHTT hướng tới sửa đổi nhằm bảo đảm cơ chế bảo vệ quyền SHTT hiệu quả, hợp lý và khả thi hơn. Trong đó đáng chú ý là thẩm quyền chủ động áp dụng biện pháp kiểm soát tại biên giới và trách nhiệm của Hải quan trong kiểm soát đối với hàng hoá XK, quá cảnh giả mạo về SHTT đảm bảo thống nhất giữa các Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *