Kết quả điều tra khâu trồng chè
Đặc trưng chuỗi cung ứng với khâu sản xuất chè
Chuỗi cung ứng có liên quan đến nhiều hoạt động cần thiết để đưa một sản phẩm (hoặc một dịch vụ) từ ý niệm, qua các khâu khác nhau đến tay người tiêu dùng cuối cùng và xử lý sau khi sử dụng. Hơn nữa, một chuỗi cung ứng tồn tại khi tất cả các bên tham gia chuỗi hoạt động nhằm tối đa hóa việc gia tăng giá trị trong suốt toàn chuỗi. Phân tích giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng nhằm hiểu được các nhân tố khác nhau tạo ra động lực phát triển, khả năng cạnh tranh trong cùng ngành và xác định những cơ hội và hạn chế trong việc tăng lợi ích cho các bên hoạt động trong ngành.
Chuỗi cung ứng mặt hàng chè các tỉnh miền núi Tây Bắc (Hình 2.7) là chuỗi cung ứng phức tạp, liên quan tới các công đoạn từ khâu chế biến và sản xuất chè lá cho đến chế biến và bán chè khô. Mỗi khâu nắm giữ những vai trò quan trọng trong sự phát triển của cả mặt hàng chè Tây Bắc. Mỗi khâu của chuỗi cung ứng đều có các tác nhân riêng, mỗi tác nhân lại có vai trò nhất định, tương tác với nhau trong bản thân các khâu đó.
Các tác nhân tham gia vào chuỗi cung ứng mặt hàng chè
Có nhiều tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị cây chè, trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tế, NCS thấy có một số tác nhân (Bảng 2.10, phụ lục 6) chủ yếu như: (i) các hộ nông trường viên: đây là những công nhân nông trường đã nhận đất của nông trường theo hợp đồng khi nông trường chuyển đổi thành công ty và các hộ có khả năng ký hợp đồng sản xuất cho DNNN hoặc công ty chè); (ii) Các hộ sản xuất trang trại: là những hộ có quy mô sản xuất lớn và không phải là nông trường viên; (iii) Các hộ sản xuất tự do: là những hộ có quy mô sản xuất nhỏ và cũng không phải là nông trường viên; (iv) Các xã viên HTX: là những hộ tham gia HTX (gồm cả những hộ tham gia tổ, nhóm nông dân). Trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm, có các cơ sở chuyên chế biến tư nhân, hộ sản xuất kiêm chế biến, DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh chế biến và xuất khẩu; người thu gom, người bán buôn… Các tác nhân hỗ trợ như Sở NN&PTNT, Sở Công Thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức đoàn thể quần chúng như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… NCS cũng xác định có 4 kênh tiêu thụ sản phẩm chính và việc phân tích chuỗi giá trị được tập trung nhiều hơn vào xác định những cơ hội và hạn chế trong việc giúp tăng giá trị cho sản phẩm của nông dân sản xuất nhỏ và giúp họ tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường.
Chi phí, lợi nhuận và thu nhập của người trồng chè
Doanh thu, giá bán chè búp tươi
Kết quả điều tra năm 2020 cho thấy việc trồng chè của người dân tại 5 tỉnh điều tra đạt doanh thu thể hiện ở Bảng 2.11, phụ lục 6. Trước hết, đó là năng suất luôn ổn định và đạt trung bình 11,66 tấn/ha, bằng 1,86 lần năng suất trung bình của cả nước (năm 2020 chè búp tươi Việt Nam đạt năng suất bình quân 9,8 tấn/ha). Năng suất chè búp tươi không chỉ phụ thuộc vào mức đầu tư thâm canh mà còn phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật thu hái; theo số liệu điều tra, năng suất chè búp tươi đạt cao nhất ở tỉnh Phú Thọ 13,12 tấn/ha; thấp nhất là tại Lào Cai đạt 10,7 tấn/ha, Sơn La 11,11 tấn/ha. Nguyên nhân chủ yếu do tuổi chè và giống chè, tỉnh Phú Thọ chủ yếu là chè cao sản và chè đặc sản (Chùa Tà, Bát Tiên, Chè Lai…), tuổi chè chủ yếu <20 năm; tỉnh Sơn La diện tích chè chủ yếu là giống Shan Tuyết cổ thụ, giống nhập nội. Doanh thu từ sản xuất chè búp tươi cũng tỷ lệ thuận với năng suất chè (thấp nhất là tỉnh Yên Bái đạt 86,05 triệu đồng/ha và cao nhất là tỉnh Phú Thọ 95,62 triệu đồng/ha và Sơn La 95,84 triệu đồng/ha).
Sản xuất chè có đặc thù là càng được chăm bón và tưới thì càng cho năng suất cao, chi phí chăm sóc chè phụ thuộc nhiều vào quy trình chăm sóc của người sản xuất và vốn đầu tư cho cây chè. Do đó chi phí sản xuất chè có sự chênh lệch rất lớn giữa các tỉnh điều tra thậm chí giữa các hộ dân trong cùng một đơn vị hành chính với nhau. Để thực hiện các khâu chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh hại và thu hoạch trong một năm, trung bình 1 ha chè cần từ 150 – 200 công lao động. Trong đó công lao động thu hái chè chiếm tỷ lệ lớn nhất khoảng 70 – 80% tổng số công lao động. Công lao động thu hái chè phụ thuộc vào năng suất và số lần thu hái của vườn chè. Chi phí lao động chiếm một tỉ lệ lớn trong các khoản chi phí sản xuất (chiếm 50,64%) tùy thuộc vào điều kiện ngoại cảnh cụ thể của từng vườn chè. Theo tính toán từ số liệu điều tra, tỉ lệ chi phí lao động trong tổng chi phí trồng chè ở tỉnh Phú Thọ là cao nhất chiếm 54,39%, tiếp đến là tỉnh Tuyên Quang chiếm 54,23% và thấp nhất là Sơn La 44,33% của tổng chi phí chăm sóc thu hoạch.
Cùng với chi phí về lao động, chi phí vật chất như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu vận chuyển cũng khá lớn và có xu hướng ngày một tăng. Chi phí phân bón mỗi ha chè hàng năm trung bình 20,09 triệu đồng, chiếm 35,69% trong tổng chi phí chăm sóc, thu hoạch chè hàng năm. Mức chi phí này có biến động lớn nhất tùy thuộc vào mức độ đầu tư của chủ hộ cho cây chè và một phần phụ thuộc vào giống chè (Bảng 2.12, phụ lục 6).
Ngoài chi phí lao động và chi phí vật chất, chi phí dịch vụ và lãi vay ngân hàng chiếm tỷ lệ nhỏ, 7 – 9% tổng chi phí. Như vậy, chi phí cho chè gồm 2 khoản mục chính đó là chi phí vật chất và chi phí lao động.
Giá thành sản xuất
Giá thành bình quân 1 tấn chè búp tươi 4,85 triệu đồng/tấn, có sự chênh lệch giữa các tỉnh tùy thuộc vào năng suất và mức độ chi phí khác nhau, giá thành thấp nhất là Yên Bái 4,01 triệu đồng/tấn, cao nhất là Lào Cai 6,02 triệu đồng/tấn (Bảng 2.13, phụ lục 6).
Giá trị gia tăng và lợi nhuận khâu sản xuất chè
Kết quả điều tra năm 2020, giá trị gia tăng (VA) mỗi ha chè dao động từ 64,86 triệu đồng/ha đến 74,53 triệu đồng/ha, trung bình đạt 68,28 triệu đồng/ha. Tỷ lệ biến động VA rất rõ nét phụ thuộc vào mức độ đầu tư thâm canh của người trồng chè và giống chè (chi phí trung gian) và chất lượng chè búp tươi (kỹ thuật thu hái và giống). Lợi nhuận trước thuế (lãi thuần) và sau thuế (lãi ròng) của người trồng chè có giá trị như nhau do thuế được tính vào giá thành sản phẩm khi được nhà máy thu mua; mức lợi nhuận dao động từ 43,06 triệu đồng/ha đến 63,44 triệu đồng/ha (bình quân 50.96 triệu đồng/ha). Hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái giá chè tươi thấp là do hái dài, cắt cả cành, tỷ lệ búp ít, gây lãng phí cho chế biến và tiêu thụ, do đó lợi nhuận thấp nhất chỉ đạt dưới 50 triệu đồng/ha. Tỉnh Tuyên Quang có mức lợi nhuận cao nhất do là vùng trọng điểm chế biến chè Ôlong nên vùng nguyên liệu phục vụ chế biến được quan tâm đầu tư các giống chè được sử dụng chủ yếu là chè cao sản, đặc sản như TB14, Shan tuyết… có năng suất và chất lượng cao nên mức lợi nhuận đạt 62,44 triệu đồng/ha (Bảng 2.14, phụ lục 6).
Kết quả phân tích hiệu quả sản xuất trên 1ha cho thấy, tỷ trọng giá trị gia tăng trên tổng doanh thu (VA/Doanh thu) 1ha chè thấp nhất tại Lào Cai là 71,85% và cao nhất tại Sơn La là 77,76%, trung bình toàn vùng là 75% tổng doanh thu; chi phí trung gian (IC) đạt trung bình 25,08% tổng doanh thu. Trong chi phí trung gian (IC) chiếm tỷ trọng lớn nhất 90,99% (Lào Cai) và nhỏ nhất là 84,45% (Sơn La); trung bình 88,89%. Tỷ lệ lãi thuần trên tổng doanh thu chiếm tỷ lệ khá cao với 58,32%. Đánh giá chung về hiệu quả kinh tế của cây chè năm 2020 là khá ổn định, giá trị gia tăng đạt khá cao. Nguyên nhân chính của sự khác biệt về hiệu quả kinh tế giữa các vùng khác nhau là do:
– Năng suất chè giữa các vùng có sự khác biệt
– Chất lượng chè giữa các vùng có sự chênh lệch rõ rệt do giống và kỹ thuật thu hái quyết định.
– Hiệu quả đầu tư vốn (chủ yếu là đầu tư phân bón) giữa các tỉnh có sự khác biệt.
Trên đây là các số liệu phân tích về doanh thu, chi phí và lợi nhuận của người trồng chè trên mỗi ha diện tích. Phân tích này nhằm mục đích so sánh hiệu quả đầu tư giữa người trồng chè ở các khu vực khác nhau. Nhằm tìm ra những yếu tố tăng hiệu quả đầu tư trên mỗi ha chè, hay tìm ra yếu tố tiềm năng tăng giá trị gia tăng. Về việc phân tích cả chuỗi giá trị của sản phẩm chè, thì không thể dùng đơn vị diện tích là ha. Đến giai đoạn khác của chuỗi như thu mua, chế biến và tiêu thụ, đơn vị diện tích không còn dùng làm cơ sở được nữa. Vì vậy, để hình thành 1 chuỗi cung ứng cho tất cả các giai đoạn đơn vị tính chung sẽ phải là 1 tấn búp tươi. Về giá thành của 1 tấn chè búp tươi giai đoạn này cũng được tính toán dựa trên tổng chi phí (kể cả khấu hao) cho 1 ha chè và năng suất bình quân. Qua phân tích và tính toán, bảng sau tổng hợp doanh thu, chi phí trung gian, giá trị gia tăng mỗi tấn chè tại các vùng điều tra năm 2020 (Bảng 2.15, phụ lục 6).
Về doanh thu sản xuất trong năm 2020, doanh thu của 1 tấn chè búp tươi tại 5 tỉnh điều tra trung bình là 7,85 triệu đồng/tấn, doanh thu chè búp tươi có sự chênh lệnh khá rõ rệt giữa các tỉnh: cao nhất ở Sơ La (8,63 triệu đồng/tấn) và và thấp nhất ở Yên Bái (7,19 triệu đồng/tấn). Sự chênh lênh này cũng còn có nguyên nhân về mức giá thu mua của đối tượng có hợp đồng liên kết với nhà máy thường thấp hơn giá thu mua ngoài thị trường do các hộ liên kết được hỗ trợ về vật tư và kỹ thuật sản xuất chứ không hẳn do chất lượng chè.
Phân tích hiệu quả đầu tư trong sản xuất chè cho thấy các thông số doanh thu/chi phí trung gian đạt 4,00 lần, giá trị gia tăng/chi phí trung gian đạt 3,00 lần, lợi nhuận/chi phí trung gian đạt 2,35 lần (Bảng 2.16, phụ lục 6).
Về cơ cấu thu nhập, đối với các hộ trồng chè, theo kết quả điều tra thu nhập từ chè hầu hết đều chiếm khoảng 60 – 80% cơ cấu thu nhập của hộ, còn lại là thu nhập từ các nguồn thu khác.
So sánh hiệu quả giữa các giống chè khác nhau
– Giống chè Trung du là giống chè phổ biến hiện nay thường được trồng bằng hạt có năng suất và chất lượng thấp, chiếm 58% tổng số hộ trồng chè, đây là nguyên liệu chủ yếu cho chế biến chè đen và chè xanh phẩm cấp thấp. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt 25 – 30 triệu đồng/ha/năm.
– Giống chè lai LDP, PH, Shan, TB14… là các giống chè cao sản có phẩm cấp tốt, năng suất cao gấp 2,0 – 2,5 lần chè trung du. Thu nhập bình quân đạt 50 – 70 triệu đồng/ha/năm.
– Giống chè đặc sản nhập nội như Shan tuyết, Tà Xùa, Tam Đường… chủ yếu để chế biến chè Ôlong và chè có phẩm chất tốt nhưng năng suất chỉ ở mức trung bình <15 tấn/ha, thu nhập bình quân đạt từ 150 – 180 triệu đồng/ha/năm.
Kết quả điều tra khâu chế biến trong chuỗi cung ứng mặt hàng chè
Đặc trưng chuỗi cung ứng chế biến chè
Đa số cơ sở, doanh nghiệp chế biến chè được điều tra có quy mô vừa và nhỏ. Một số doanh nghiệp được cổ phần hóa từ các doanh nghiệp nhà nước, hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần, một số hoạt động dưới dạng hợp tác xã hoặc được thành lập dưới dạng xí nghiệp trực thuộc tổng công ty, đa phần là các cơ sở chế biến quy mô hộ nhỏ lẻ. Nguyên liệu đầu vào của các cơ sở này là chè búp tươi hoặc chè sơ chế, sau đó được phân loại và chế biến, đóng gói (Hình 2.8).
Đối với từng loại chè thành phẩm, chuỗi cung ứng chế biến chè sẽ khác nhau:
– Chè đen chủ yếu phục vụ xuất khẩu, do đó hình thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các doanh nghiệp tiêu thụ trung gian hoặc nhà ủy thác xuất khẩu. Chè đen của Việt Nam xuất khẩu dưới dạng bán thành phẩm được đóng gói 50kg sau khi xuất sang nước bạn hàng sản phẩm mới được tinh chế, đóng gói, dán nhãn mác… rồi mới đưa ra thị trường.
– Chè Ôlong vừa phục vụ xuất khẩu và vừa nội tiêu, tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu chiếm trên 80% và chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp dưới dạng sản phẩm cuối cùng được đóng gói nhãn mác và có thương hiệu. Chè Ôlong chỉ chiếm 2 – 3% thị phần xuất khẩu của chè Việt Nam.
– Chè xanh cùng là mặt hàng vừa xuất khẩu vừa nội tiêu, tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu chỉ chiếm 30% còn lại là nội tiêu. Sản phẩm được xuất khẩu dưới dạng thô (bao 50kg), một phần sản phẩm chất lượng cao được đóng gói (hoặc đóng hộp) có thương hiệu được bán với giá cao. Chè xanh chiếm 35 – 36% thị phần xuất khẩu của chè Việt Nam.
Nguồn nguyên liệu cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến chè chính là các cơ sở thu mua và sơ chế chè, các thương lái trong vùng sản xuất chè hoặc người sản xuất trực tiếp bán sản phẩm cho doanh nghiệp thông qua hình thức hợp đồng hoặc không có hợp đồng. Một phần nguyên liệu chè tự có từ vùng nguyên liệu của chính các doanh nghiệp chế biến. Có thể chia hệ thống cung cấp nguyên liệu đầu vào theo các hướng chủ yếu sau:
– Cơ sở sơ chế cung cấp chè đã được vò và sấy khô dạng bán thành phẩm.
– Thương lái thu gom chè búp tươi từ người nông dân trồng và cung cấp cho các cơ sở chế biến.
– Đại diện của doanh nghiệp thu mua chè búp tươi từ người trồng ngay tại vùng nguyên liệu bằng hình thức có hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết.
– Doanh nghiệp chế biến tự mua đất hoặc thuê đất để xây dựng vùng nguyên liệu của mình, người trồng chè là các công nhân làm thuê cho nông trường chè của các doanh nghiệp chế biến.
Các tác nhân cung cấp chè nguyên liệu đóng vai trò khá quan trọng quyết định chất lượng, chi phí sản xuất, giá và lợi nhuận của doanh nghiệp chế biến xuất khẩu chè (chi phí chè búp tươi nguyên liệu chiếm khoảng 75 – 85% chi phí trung gian). Hiểu được tầm quan trọng nên một số doanh nghiệp tự xây dựng vùng nguyên liệu cho mình hoặc tổ chức mạng lưới thu mua chè búp tươi, xây dựng các nhà máy vệ tinh và mạng lưới các cơ sở thu mua – sơ chế nhằm cung cấp đủ lượng cho doanh nghiệp hoạt động, nhất là cho những tháng thiếu hụt nguyên liệu.
Tuy nhiên, doanh nghiệp chế biến chè vẫn gặp phải các rủi ro từ mạng lưới các đầu mối cung cấp chè nguyên liệu, cụ thể như: Thiếu hụt chè nguyên liệu so với yêu cầu; Chất lượng chè nguyên liệu không đảm bảo (lẫn tạp chất, tồn dư hóa chất)…
Thị trường đầu ra
Thị trường đầu ra của chè thành phẩm sau chế biến bao gồm thị trường quốc tế và thị trường trong nước.
– Thị trường quốc tế: Việt Nam xuất khẩu chè sang 74 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy xuất khẩu sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ như vậy, nhưng thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam vẫn chỉ tập trung lớn vào một số quốc gia như: Pakistan (32,12%), Đài Loan (12,8%), Nga (10,4%), Trung Quốc (6%), Mỹ (7%), Indonesia (6,3%). Trên thị trường quốc tế, mặc dù Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới, nhưng giá sản phẩm chè của Việt Nam lại ở mức thấp chỉ bằng 60 – 70% bình quân giá chè xuất khẩu trên thế giới.
– Thị trường trong nước: Chè thành phẩm được các doanh nghiệp chế biến đóng gói và dán nhãn mác bán cho các doanh nghiệp phân phối tiêu thụ hoặc tự xây dựng hệ thống phân phối tiêu thụ cho chính doanh nghiệp mình rộng khắp cả nước. Điều này có nghịch lý khi so sánh với các nông sản xuất khẩu khác, đối với chè thì chè chất lượng được đóng gói, dán nhãn mác được tiêu thụ trong nước còn các loại chè phẩm chất thấp được chế biến dưới dạng bán thành phẩm thì được đóng bao 50kg để xuất khẩu.
Chi phí, doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng chế biến chè
* Chè đen
+ Chi phí và cơ cấu chi phí
Chè đen được chế biến bởi 2 công nghệ:
– Công nghệ OTD (Kỹ thuật cơ bản sản xuất chè truyền thống Orthodox – OTD) có xuất xứ từ Nga và hệ thống thiết bị từ Nga là chủ yếu. Tuy là công nghệ cũ nhưng thực tế nếu đúng thiết bị đồng bộ được nhập từ Nga thì chất lượng rất tốt không thua kém gì các sản phẩm cùng loại trên thế giới. Thế nhưng sau này các thiết bị đến kỳ bảo dưỡng hoặc thay thế đã không được thực hiện đúng quy chuẩn dẫn đến tình trạng thiết bị máy móc bị cắt xén, chắp vá, nhiều chi tiết được sản xuất trong nước, không đảm bảo vệ sinh thực phẩm trong phát triển vật liệu chế tạo dẫn đến chất lượng chè OTD bị suy giảm nhanh chóng và mất dần chất lượng. Hiện nay, Việt Nam đã nhập thiết bị chế biến chè OTD của Ấn Độ và Sri Lanka, tuy nhiên nhiều nhà máy sản xuất quy mô nhỏ với trang thiết bị không đồng bộ nhập từ Trung Quốc, không theo quy trình kỹ thuật. Kết quả là chè đen OTD nước ta có giá và chất lượng thấp
– Công nghệ sản xuất chè đen CTC được nhập của Ấn Độ sau thời điểm Việt Nam
gia nhập TO (năm 2007). Dây chuyền thiết bị đầu tiên được nhập lại là hệ thống thiết bị rất lạc hậu và nhanh chóng bị đào thải. Sau này trang thiết bị được nhập hiện đại không thua kém gì các nước Ấn Độ, Sri Lanka, Kenya. Tuy nhiên chúng ta lại thua kém về trình độ quản lý, quy trình kỹ thuật an toàn chất lượng trong sản xuất, thua kém cả về chế độ kiểm soát chất lượng và trình độ công nhân và cán bộ sản xuất dẫn đến chè đen CTC của Việt Nam cũng lại thua kém các nước xuất khẩu chè đen trên thế giới.
Hai tỉnh trọng điểm chế biến chè đen là Yên Bái và Phú Thọ chiếm 76% tổng sản lượng chè đen của 5 tỉnh điều tra. Theo kết quả điều tra tại các doanh nghiệp và cơ sở chế biến chè nhỏ lẻ thì giá chè búp tươi nguyên liệu dao động rất lớn tùy theo chất lượng chè. Đối với chè đen yêu cầu về chất lượng nguyên liệu đầu vào không cao, chè nguyên liệu chủ yếu ở hạng B và C (theo tiêu chuẩn Việt Nam) do vậy đơn giá chè nguyên liệu trung bình ở mức 6.3 triệu đồng/tấn, thấp nhất đạt 3 triệu đồng/tấn và cao nhất là 9 triệu đồng/tấn. Như vậy, giá bán của cơ sở thu mua chè búp tươi và giá mua vào của các cơ sở chế biến là tương đương nhau. Vì vậy chúng tôi sử dụng giá mua trung bình của từng tỉnh làm cơ sở tính toán chi phí (Bảng 2.18, phụ lục 6).
Chi phí trung gian không bao gồm chi phí lao động, khấu hao tài sản cố định. Theo kết quả điều tra năm 2020, một tấn chè đen sau chế biến, chi phí trung gian 25,26 triệu đồng, chi phí khác 3,82 triệu đồng, trong khi đó 1 tấn chè đen xuất khẩu có giá thành khoảng 34 triệu đồng. Như vậy, nếu tính lãi ròng (lãi sau thuế) thì chế biến chè đen năm 2020 lãi khoảng hơn 3 triệu đồng/tấn. Chi phí sản xuất cũng phụ thuộc khá lớn vào quy mô sản xuất. Chi phí sản xuất ở 2 tỉnh trọng điểm chế biến chè đen ở Việt Nam thường thấp nhất: Yên Bái có chi phí trung gian 23,49 triệu đồng/tấn; Phú Thọ 23,67 triệu đồng/tấn.
Theo bảng trên, để chế biến 1 tấn chè đen xuất khẩu, chi phí mua nguyên liệu chiếm
66,73% tổng chi phí; đây là mức cao nhất trong cơ cấu chi phí. Đứng thứ 2 là chi phí nhiên liệu năng lượng chiếm trung bình 15,7% tổng chi phí. Các chi phí về đầu tư công cụ, dụng cụ, thuê nhà xưởng, máy móc và hao hụt chiếm tỷ trọng không đáng kể 4,57% tổng chi phí. Như vậy, để giảm chi phí trung gian trong chế biến chè đen thì cần giảm chi phí mua nguyên liệu đầu vào cho chế biến là quan trọng nhất.
Chi phí lao động nằm ngoài chi phí trung gian, bình quân 2,19 triệu đồng/tấn, chiếm 7,35% tổng chi phí. Thuế và lãi ngân hàng chiếm trung bình 5,26% tổng chi phí, trong đó chi phí lãi vay ngân hàng tương đối lớn (trên 4%) do nhiều doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc nhiều vào vốn vay ngân hàng. Các doanh nghiệp hoạt động với quy mô chế biến chè từ 500 tấn/năm trở lên đòi hỏi phải có lượng vốn lưu động khá lớn từ 20 tỷ đồng trở lên để nhà máy hoạt động. Lãi suất cho vay năm 2020 cũng khá cao 8 – 12%/năm; đây cũng là trở ngại lớn của doanh nghiệp chế biến chè đen. Ngoài ra các chính sách và mức thuế cũng như ưu đãi của từng tỉnh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối chi phí chế biến chè.
+ Giá bán, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng
Kết quả điều tra tại 51 cơ sở chế biến chè đen cho thấy, doanh thu của 1 tấn chè đen thành phẩm như sau: trung bình 32,57 triệu đồng; cao nhất 34,32 triệu đồng; thấp nhất 30,55 triệu đồng. Doanh thu ở các tỉnh khác nhau chủ yếu do chất lượng chè, phương thức bán và nhân tố thị trường quyết định (Bảng 2.19, phụ lục 6).
Kết quả phân tích giá trị gia tăng (VA) và chi phí trung gian (IC) của giai đoạn chế biến xuất khẩu ở bảng trên cho thấy một số điểm quan trọng sau:
– Giá trị gia tăng chiếm 16,02% trong tổng doanh thu (P). Một tấn chè đen đạt giá trị tăng thêm trung bình 5,22 triệu đồng. Như vậy, đối với các doanh nghiệp chế biến chè đen sử dụng nguồn vốn vay là chủ yếu thì lợi nhuận thấp. Hai tỉnh trọng điểm chế biến chè đen có mức doanh thu thấp nhất: Yên Bái đạt 30,55 triệu đồng/tấn; Phú Thọ đạt 31,5 triệu đồng/tấn. Điều này phụ thuộc nhiều vào chất lượng chè thành phẩm và thị trường tiêu thụ, để nâng giá trị sản xuất (doanh thu) thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm là rất quan trọng, ngoài quản lý chè nguyên liệu đầu vào thì công nghệ, thiết bị phục vụ chế biến cũng như công tác áp dụng các tiêu chuẩn cho chế biến là rất quan trọng. Với thiết bị chắp vá không đảm bảo tiêu chuẩn như hiện nay thì rất khó nâng cao chất lượng sản phẩm và giá xuất khẩu. Càng sản xuất lớn thì chất lượng sản phẩm càng khó được kiểm soát từ đó dẫn đến giá xuất khẩu càng thấp.
– Lợi nhuận chế biến 1 tấn chè đen trung bình 3,2 triệu đồng/tấn, biến động từ 2,1 đến 4,5 triệu đồng/tấn. Đặc biệt tỉnh Sơn La, Lào Cai không phải trọng điểm sản xuất chè đen nên lợi nhuận thấp nhất. Điều này phản ánh đúng với thực tế khi kết quả điều tra cho thấy giá nguyên liệu chè tươi đầu vào của tỉnh trên là rất cao do vùng nguyên liệu chủ yếu được quy hoạch chế biến chè xanh có giá trị gia tăng cao hơn; trong khi phương thức bán chủ yếu thông qua doanh nghiệp khác dưới dạng xuất khẩu ủy thác chứ không đủ tiềm lực cũng như khối lượng hàng hóa để thực hiện xuất khẩu trực tiếp, đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng chi phí trung gian.
+ Hiệu quả sử dụng vốn
Phân tích hiệu quả đầu tư từ 1 đồng chi phí trung gian (IC) cho thấy các thông số doanh thu/chi phí trung gian (P/IC) là 1,28, giá trị gia tăng/chi phí trung gian (VA/IC) 0,17, lợi nhuận/chi phí trung gian (NPr/IC) 0,13 (Bảng 2.20, phụ lục 6).
* Chè xanh + Chi phí
Theo kết quả điều tra tại các doanh nghiệp và cơ sở chế biến chè nhỏ lẻ tại các tỉnh điều tra, chè búp tươi nguyên liệu ở mức trung bình chủ yếu là hạng B và C (chất lượng nguyên liệu đầu vào của chế biến chè xanh đòi hỏi cao hơn chế biến chè đen), đơn giá chè nguyên liệu trung bình ở mức 6 triệu đồng/tấn, thấp nhất là 4 triệu đồng/tấn và cao nhất trên 9 triệu đồng/tấn. Chúng tôi sử dụng giá mua trung bình của từng tỉnh làm cơ sở tính toán chi phí. Kết quả tính toán chi phí và cơ cấu chi phí của cơ sở chế biến chè xanh được tổng hợp tại bảng 2.21, phụ lục 6.
Theo kết quả điều tra năm 2020, một tấn chè xanh chế biến, tổng chi phí bình quân 62,00 triệu đồng, chi phí trung gian trung bình 47,61 triệu đồng, trong khi đó 1 tấn chè xanh thành phẩm có giá thành là 65,82 triệu đồng/tấn. Riêng đối với chè xanh chi phí chế biến phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào. Để chế biến 1 tấn chè xanh, thì chi phí mua nguyên liệu chiếm khoảng 62,15% tổng chi phí, chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu chi phí, thậm chí cao hơn chế biến chè đen. Nguyên nhân chủ yếu do chế biến chè đen đòi hỏi chi phí và công nghệ chế biến cao hơn chè xanh rất nhiều trong khi yêu cầu chất lượng nguyên liệu đầu vào cho chế biến chè xanh đòi hỏi cao hơn. Chi phí nhiên liệu năng lượng chỉ chiếm 11,52% tổng chi phí. Các chi phí về đầu tư công cụ, dụng cụ, thuê nhà xưởng, máy móc và hao hụt chiếm tỷ trọng không đáng kể 3,7% tổng chi phí. Như vậy, đối với chế biến chè xanh cũng như chè đen, để giảm chi phí trung gian thì cần giảm chi phí mua nguyên liệu đầu vào.
Chi phí lao động cho chế biến chiếm 17,36% tổng chi phí, thuế và lãi ngân hàng chiếm trung bình 5,23% tổng chi phí. Các doanh nghiệp hoạt động với quy mô chế biến chè từ 500 tấn/năm trở lên đòi hỏi phải có lượng vốn lưu động rất lớn 8 – 15 tỉ đồng trở lên để nhà máy hoạt động (cao hơn vốn đầu tư sản xuất chè đen chủ yếu do giá nguyên liệu chè búp tươi). Lãi suất cho vay năm 2020 cũng khá cao 8 – 12%/năm; đây cũng là trở ngại lớn của doanh nghiệp chế biến chè xanh. Ngoài ra các chính sách và mức thuế cũng như ưu đãi của từng tỉnh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối chi phí chế biến chè.
+ Giá bán, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng
Kết quả điều tra cho thấy (Bảng 2.22, phụ lục 6), doanh thu của 1 tấn chè xanh thành phẩm có sự chênh lệnh rất lớn: trung bình 60,80 triệu đồng; cao nhất 66,99 triệu đồng (Yên Bái); thấp nhất: 57,17 triệu đồng (Tuyên Quang). Doanh thu ở các tỉnh khác nhau chủ yếu do chất lượng chè, tỉnh Yên Bái có thương hiệu về chế biến chè xanh, chè xanh thường được chế biến thành sản phẩm cuối cùng, được đóng gói với đầy đủ nhãn mác phục vụ nội tiêu, xuất khẩu ít nên giá trị gia tăng rất cao.
Kết quả phân tích giá trị gia tăng (VA) và chi phí trung gian (IC) của giai đoạn chế biến xuất khẩu ở bảng trên cho thấy một số điểm quan trọng sau:
– Giá trị gia tăng cao, trung bình đạt 27,82% trong tổng doanh thu (P). Một tấn chè xanh trung bình đạt VA 14,14 triệu đồng, gấp 3,64 lần chè đen. Thái Nguyên là trọng điểm phát triển chè xanh, VA đạt 13,28 triệu đồng/tấn, Yên Bái chè xanh tỉnh Yên Bái chiếm tỷ trọng thấp nhưng tập trung vào loại chè đặc sản (chè Shan Tuyết) có giá trị gia tăng cao nên VA đạt 9,42 triệu đồng/tấn. Hiện nay việc xuất khẩu chè ở Việt Nam có một nghịch lý là: chè xanh có giá trị gia tăng cao nhưng tỷ trọng xuất khẩu thấp, chủ yếu do thị trường tiêu thụ chè xanh chỉ tập trung ở một số ít nước thuộc Châu Á, các thị trường EU, Mỹ… chủ yếu tiêu thụ chè đen. Trong thời gian tới cần tăng tỷ trọng xuất khẩu chè xanh, mặt hàng có lợi thế của Việt Nam.
– Lãi thuần biến động từ 3,54 triệu đồng/tấn (Tuyên Quang) đến 9,64 triệu đồng/tấn (Thái Nguyên), 2 tỉnh thành là Thái Nguyên, Lâm Đồng có thương hiệu, truyền thống sản xuất và thị trường tiêu thụ ổn định nên lợi nhuận đạt cao nhất.
+ Hiệu quả sử dụng vốn
Phân tích hiệu quả đầu tư từ 1 đồng chi phí trung gian (IC) cho thấy các thông số doanh thu/chi phí trung gian đạt 1,3 lần, Giá trị gia tăng/chi phí trung gian đạt 0,3 lần, lợi nhuận/chi phí trung gian đạt 0,15 lần (Bảng 2.23, phụ lục 6).
* Chè Ôlong
+ Chi phí và cơ cấu chi phí
Chè Ôlong xuất xứ từ Đài Loan, mới được đưa vào Việt Nam khoảng trên 10 năm, hiện tại đã được trồng ở một số tỉnh như Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn La. Ban đầu, hầu hết các doanh nghiệp chế biến chè Ôlong đều có vốn đầu tư và nhân lực quản lý từ nước ngoài (Đài Loan, Trung Quốc…); đến nay đã có nhiều doanh nghiệp của Việt Nam học hỏi kinh nghiệm và tự xây dựng hệ thống chế biến chè Ôlong của mình. Chè Ôlong là ngành hàng chè duy nhất của Việt Nam có thể so sánh với các nước xuất khẩu chè trên thế giới về chất lượng cũng như giá cả. Tuy nhiên, tỷ trọng sản lượng chè Ôlong trong tổng sản lượng chè Việt Nam không cao (dưới 10%), do vậy, chè Ôlong cũng chỉ đóng góp phần rất nhỏ trong việc nâng cao giá trị xuất khẩu của chè Việt Nam (Bảng 2.24, phụ lục 6).
Theo kết quả điều tra tại các doanh nghiệp chế biến thì chè Ôlong đòi hỏi chất lượng nguyên liệu đầu vào cao nhất (chất lượng chè chủ yếu hạng A, B theo tiêu chuẩn của Việt Nam) và chỉ một số giống chè đặc sản (chè hương) nhập khẩu mới có thể đáp ứng được; đơn giá chè nguyên liệu trung bình ở mức 12 triệu đồng/tấn, thấp nhất đạt 11 triệu đồng/tấn và cao nhất 13 triệu đồng/tấn. Chúng tôi sử dụng giá mua trung bình của từng tỉnh làm cơ sở tính toán chi phí. Kết quả tính toán chi phí và cơ cấu chi phí của cơ sở chế biến chè Ôlong được tổng hợp tại bảng 2.25 phụ lục 6.
Theo kết quả điều tra năm 2020, một tấn chè Ôlong sau chế biến có mức chi phí trung gian cao nhất trong ba loại chè (chè xanh, chè đen, chè Ôlong) với mức trung bình 48,27 triệu đồng/tấn (tổng chi phí 56,53 triệu đồng/tấn). Riêng đối với chè Ôlong chi phí chế biến phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng nguyên liệu đầu vào, công nghệ chế biến và cả chất lượng nhân lực tham gia chế biến. Trong chi phí chế biến, chi phí mua nguyên liệu chiếm trung bình 69,99% tổng chi phí; yêu cầu chất lượng nguyên liệu đầu vào cho chế biến chè Ôlong đòi hỏi rất cao nên dẫn đến mức chi phí chè nguyên liệu đầu vào chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi phí. Chi phí nhiên liệu năng lượng chiếm trung bình 14,55% tổng chi phí. Các chi phí về đầu tư công cụ dụng cụ, thuê nhà xưởng, máy móc và hao hụt cũng cao hơn chế biến chè xanh và chè đen, 4,77% tổng chi phí.
Chi phí lao động cho chế biến chiếm 6,72% tổng chi phí chế biến, thuế và lãi ngân hàng chiếm tỷ lệ khá cao 6,56% tổng chi phí. Như vậy vốn sản xuất chè Ôlong năm 2020
cũng phụ thuộc nhiều vào vốn vay ngân hàng. Các doanh nghiệp hoạt động với quy mô chế biến chè từ 500 tấn/năm trở lên đòi hỏi phải có lượng vốn lưu động rất lớn trên 24 tỉ đồng trở lên để nhà máy hoạt động. Lãi suất cho vay năm 2020 cũng khá cao 10 – 15%/năm; đây cũng là trở ngại lớn của doanh nghiệp chế biến chè Ôlong. Ngoài ra các chính sách và mức thuế cũng như ưu đãi của từng tỉnh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối chi phí chế biến chè.
+ Giá bán, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng
Kết quả điều tra cho thấy, doanh thu của 1 tấn chè Ôlong thành phẩm ở mức cao nhất trong các sản phẩm chè sau chế biến và có sự chênh lệch: trung bình 72,69 triệu đồng; cao nhất 102,27 triệu đồng (Sơn La); thấp nhất: 55,5 triệu đồng (Yên Bái). Doanh thu ở các tỉnh khác nhau chủ yếu do chất lượng chè và tình trạng xuất khẩu dạng sản phẩm thô hay sản phẩm tinh; tỉnh Lâm Đồng là tỉnh trọng điểm chế biến chè Ôlong, chè thường được chế biến thành sản phẩm cuối cùng, được đóng gói với đầy đủ nhãn mác và có thương hiệu nên giá bán khá cao.
Kết quả phân tích giá trị gia tăng (VA) và chi phí trung gian (IC) của giai đoạn chế biến chè Ôlong ở bảng trên cho thấy một số điểm quan trọng sau (Bảng 2.26, phụ lục 6):
– Giá trị gia tăng đạt cao, trung bình đạt 33,58% trong tổng doanh thu (P). Đây là một chỉ số rất lý tưởng cho chè Ôlong Việt Nam. Một tấn tấn chè Ôlong trung bình đạt VA 24,41 triệu đồng, gấp 1,85 lần chè xanh và 4,7 lần chè đen. Tuy nhiên, thị trường chè Ôlong hạn hẹp, chủ yếu là Đài Loan, Trung Quốc và phục vụ nội tiêu. Thêm vào đó chè Ôlong có giá rất cao nên rất kén chọn khách hàng và trang thiết bị sản xuất cũng đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Việc nâng cao tỷ trọng xuất khẩu chè Ôlong cần có kế hoạch dài hơi chứ không thể phát triển tự phát.
– Lợi nhuận khâu chế biến chè Ôlong dao động từ 7,68 triệu đồng/tấn (Yên Bái) đến 35,21 triệu đồng/tấn (Lào Cai). Mức độ chênh lệch về lợi nhuận chủ yếu phụ thuộc vào thương hiệu chè và đối tượng khách hàng, nếu xuất khẩu dạng thô thì lãi không cao.
+ Hiệu quả sử dụng vốn
Phân tích hiệu quả đầu tư từ 1 đồng chi phí trung gian (IC) cho thấy các thông số doanh thu/chi phí trung gian đạt 155, lần, Giá trị gia tăng/chi phí trung gian đạt 0,55 lần, Lợi nhuận ròng/chi phí trung gian đạt 0,39 lần. Hiệu quả sử dụng vốn cao nhất trong 3 loại chè (Bảng 2.27, phụ lục 6).
* Chè thành phẩm khác
Ngoài 3 loại chè chế biến chính ở trên địa bàn 5 tỉnh còn sản xuất một số loại chè khác như chè ướp hương và tinh bột chè (phục vụ chế biến chè hòa tan). Tuy nhiên, giá trị gia tăng các loại chè này thường không cao.
Theo kết quả điều tra các cơ sở chế biến chè ướp hương và bột chè cho thấy: Đối với các cơ sở sản xuất tinh bột chè thường nguyên liệu là sản phẩm chè vụn (chè phế phẩm sau chế biến). Do vậy, nếu tính chi phí của cả chuỗi, chi phí trung gian trung bình 72,29 triệu đồng/tấn; lớn nhất 110,25 triệu đồng/tấn (Sơn La) đây là những doanh nghiệp chuyên chế biến tinh bột chè Cargill là nguyên liệu chế biến các loại chè túi hòa tan; thấp nhất là 45 triệu đồng/tấn (Phú Thọ) chủ yếu là tận dụng phụ phẩm chè vụn sau chế biến chè xanh (Bảng 2.28, phụ lục 6).
Giá trị gia tăng đạt bình quân 8,33 triệu đồng/tấn, trong đó chè ướp hương ở tỉnh Sơn La đạt cao nhất 10,68 triệu đồng/tấn. Chè ướp hương có công thức gia truyền thông thường là chè xanh được ướp hoa lài, hoa sói… mỗi một thương hiệu có công thức riêng không thống nhất nên khi tính hiệu quả kinh tế cũng có độ lệch chuẩn tương đối lớn. Lợi nhuận đạt bình quân 4,19 triệu đồng/tấn, cao nhất Sơn La đạt 7,53 triệu đồng/tấn.
Hiệu quả sử dụng đồng vốn trong chế biến chè ướp hương và chè túi lọc không cao: tỷ lệ doanh thu/chi phí trung gian đạt 1,18 lần, giá trị gia tăng/chi phí trung gian 0,18 lần, lợi nhuận/chi phí trung gian 0,12 lần (Bảng 2.29, phụ lục 6).
Kết quả điều tra khâu tiêu thụ trong chuỗi cung ứng chè
Thực trạng liên kết trong kênh tiêu thụ chè
Thông qua hộ gia đình nhận khoán + Đối với các hộ gia đình nhận khoán
Theo hợp đồng giao đất, các hộ có quyền sử dụng đất, nhưng không có quyền sở
hữu đất đó. Các hộ có thể nhượng quyền sử dụng đất, nhưng không dùng nó để thế chấp vay vốn ngân hàng được. Các hộ chỉ được trồng chè trên diện tích được giao, mà không được trồng các loại cây khác, đồng thời phải bán toàn bộ chè cho DNNN.
So với các hộ tự do và xã viên HTX thì các hộ nhận khoán thường có quy mô sản xuất, trình độ văn hóa, trình độ thâm canh cao hơn do được đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật bởi cán bộ kỹ thuật của nông trường trước đây, đồng thời họ có điều kiện về vốn, được nông trường ứng vật tư nên ít phải vay vốn ngân hàng.
Toàn bộ khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong kênh này đều do DNNN lo, người sản xuất chủ yếu tập trung vào việc làm thế nào sản xuất ra sản phẩm với năng suất và chất lượng cao. Chè được sản xuất theo kênh này chủ yếu phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, phần tiêu thụ trong nước rất ít.
Các hộ phải bán chè cho nông trường với mức giá không được quy định rõ trong hợp đồng giao đất, trong khi giá chè trên thị trường thường xuyên có sự biến động, nhưng đổi lại họ được hưởng một số lợi ích khác như hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp vật tư trả chậm, lương hưu, chăm sóc sức khỏe, học hành của con cái… Do vậy, liên kết này tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có xu hướng suy yếu khi khi giá cả trên thị trường thay đổi theo chiều hướng không có lợi cho các hộ hoặc chất lượng sản phẩm của các hộ quá thấp không đáp ứng được tiêu chuẩn của nông trường. Trong cả hai trường hợp các hộ hoặc là bán chè tươi cho người thu gom hoặc là tự chế biến để tiêu thụ ra bên ngoài nhằm tăng thu nhập.
+ Nông dân hợp đồng
Nông dân có đất ký hợp đồng với các doanh nghiệp theo quyết định 62/QĐ-TTg. Thỏa thuận trong liên kết này tương đối đa dạng. Có trường hợp công ty cung ứng vật tư đầu vào, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua chè của nông dân theo giá thỏa thuận từ đầu vụ. Có trường hợp công ty chỉ ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân theo giá thỏa thuận và không cung cấp dịch vụ đầu vào. Các dịch vụ đầu vào thường do nông dân tự lo hoặc được sự hỗ trợ của các tổ chức quần chúng và chính quyền địa phương. Sự liên kết này bền chặt khi giá thu mua của công ty bằng hoặc cao hơn so với giá thị trường. Các hợp đồng rất dễ bị phá vỡ, nhất là khi giá chè ngoài thị trường cao hơn giá thu mua của công ty. Ngoài ra, rất khó xử lý những trường hợp phá vỡ hợp đồng.
Như vậy, có thể thấy tác nhân đóng vai trò chính trong chuỗi liên kết này là những doanh nghiệp chế biến lớn như các doanh nghiệp Nhà nước, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, VINATEA. Các hộ nông trường viên và hộ hợp đồng có sử dụng đất của công ty có vai trò rất hạn chế. Các hộ hợp đồng tự do có vai trò nhất định, nhưng chưa rõ nét.
* Qua các hợp tác xã, tổ, nhóm nông dân
Các HTX tiến hành các hoạt động hỗ trợ xã viên như tưới tiêu, làm đất, điện sinh hoạt, mua phân bón trả chậm cho nông dân, cung cấp tín dụng lãi suất thấp, tập huấn kỹ thuật, cung cấp thông tin về thị trường và tranh thủ nguồn lực hỗ trợ của các cá nhân, và tổ chức trong và ngoài nước. Việc tiêu thụ sản phẩm cho xã viên được tiến hành theo phương thức là HTX ký hợp đồng với khách mua trước, sau đó huy động chè khô từ các thành viên. Khách mua bán cho các điểm bán lẻ hoặc cho các công ty để đóng gói xuất khẩu. Tuy nhiên, lượng sản phẩm tiêu thụ qua HTX còn rất hạn chế.
Qua nghiên cứu có thể thấy một số mặt tồn tại làm hạn chế sự phát triển của các HTX hiện nay là: lãnh đạo HTX chính là những người nông dân được bầu ra, mặc dù đã được đào tạo, tập huấn, tham quan trao đổi kinh nghiệm, nhưng do trình độ văn hóa thấp, không có nhiều điều kiện để tiếp xúc rộng rãi với nhiều đối tượng nên năng lực quản lý, điều hành, khai thác thị trường còn yếu. Vốn của HTX còn rất ít, chủ yếu là từ nguồn đóng góp lệ phí của các thành viên và hỗ trợ từ bên ngoài. Các xã viên sản xuất riêng theo quy mô gia đình, có hộ có phương tiện chế biến, có hộ không có, việc áp dụng các quy trình kỹ thuật trong sản xuất và chế biến không tốt như nhau, nên chất lượng sản phẩm không đồng nhất khi bán theo hợp đồng. Lợi ích trước mắt khi tham gia HTX của các thành viên chưa thực sự đáng kể, trong khi với sự giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể và chính quyền địa phương, xã viên HTX vẫn có thể vay vốn với lãi suất thấp, tiếp cận thông tin thị trường và mua vật tư trả chậm. Do vậy, những ràng buộc của xã viên khi thực hiện hợp đồng còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng đôi khi HTX phải phá vỡ hợp đồng, đặc biệt khi giá thị trường cao hơn giá trong hợp đồng.
Bên cạnh những HTX chính quy còn có các hình thức liên kết, hợp tác phi chính quy dưới các hình thức tổ, nhóm, câu lạc bộ. Các hình thức này được thành lập chủ yếu là do có sự hỗ trợ của các chương trình dự án với mục tiêu giúp nông dân sản xuất chè an toàn và chè hữu cơ, qua đó sẽ xây dựng thương hiệu và phát triển với quy mô lớn hơn.
Kênh giao dịch hoàn toàn dựa vào thị trường
* Thông qua các hộ trang trại
Các hộ trang trại thường có trình độ văn hóa, trình độ thâm canh, vốn sản xuất, năng lực tiếp cận thị trường cao hơn nhóm xã viên HTX và nhóm hộ tự do. Các hộ rất năng động, nhanh nhạy với những biến động của thị trường, tích cực cập nhập thông tin, tiến bộ khoa học kỹ thuật, chủ động tiến hành các thí nghiệm nhằm nâng cao năng suất, chất lượng chè.
Hầu hết các hộ đều có phương tiện chế biến, tuy vẫn còn đơn giản. Sản phẩm chè tươi thu hoạch được giữ lại để chế biến. Đôi khi, họ cũng mua chè tươi từ các hộ khác về chế biến. Họ chỉ bán chè tươi khi thấy được giá hoặc bán phần chè tươi có phẩm chất thấp cho người thu gom hoặc cơ sở chế biến. Sản phẩm chế biến xong được bán cho người bán buôn, rồi từ người bán buôn đi bán lẻ hoặc bán cho công ty để đóng gói xuất khẩu. Các hộ có điều kiện kinh tế nên thường giữ chè sau khi đã chế biến trong một thời gian nhất định và chỉ bán khi thấy giá cao. Như vậy, trong kênh này chúng ta thấy các hộ trang trại đóng vai trò rất tích cực và quan trọng. Xu hướng cho thấy các hộ này một mặt mở rộng quy mô sản xuất, một mặt đóng vai trò là nhân tố tích cực trong việc liên kết các hộ trong sản xuất và kinh doanh.
* Kênh tiêu thụ qua hộ sản xuất nhỏ
Đây là những hộ có quy mô sản xuất nhỏ nhất, trình độ văn hóa thấp nhất trong các nhóm hộ, thường xuyên thiếu vốn sản xuất, nhiều hộ có điều kiện sống khó khăn. Do đó, dù có sự giúp đỡ của chính quyền, các tổ chức quần chúng… các hộ này được tập huấn kỹ thuật nhưng việc tiếp thu và áp dụng kiến thức có phần hạn chế, sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm truyền thống và tận dụng khai thác sự màu mỡ của đất. Điều đó làm đất nghèo dần và năng suất chất lượng chè bị giảm sút. Ngoài ra, họ cũng được vay vốn với lãi suất thấp, không phải thế chấp, nhưng sử dụng vốn không hiệu quả.
Ít hộ có điều kiện để mua máy móc chế biến thành chè khô. Các hộ chủ yếu là đi thuê chế biến hoặc chế biến theo phương pháp thủ công. Chất lượng chè chế biến thấp và không đồng đều do kỹ thuật chế biến và chất lượng nguyên liệu đầu vào thấp. Ngay cả khi chè được chế biến họ cũng không có điều kiện để bảo quản và giữ chè trong một thời gian dài chờ đến khi được giá mới bán. Họ thường bán chè tươi ngay sau khi thu hoạch hoặc phải bán ngay sau khi chế biến thành chè khô với mức giá rất thấp. Chè chủ yếu bán chè cho người thu gom, sau đó người thu gom sẽ bán lại cho các cơ sở chế biến đối với trường hợp chè tươi và người mua buôn đối với trường hợp chè khô. Họ hầu như rất ít nhận được những thông tin sát thực về giá cả thị trường, thậm chí biết là giá bán thấp phải chịu thiệt, nhưng vẫn phải bán để trang trải những khoản chi trong gia định. Do vậy, trên thị trường họ dường như là người chấp nhận giá. Có thể nói, các giao dịch mua bán trong kênh hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường, chứ không liên quan tới sự hợp tác cụ thể nào, chỉ trừ một số trường hợp, một số hộ chuyên sản xuất chè đặc sản theo thỏa thuận với người mua gom ở địa phương hoặc thành phố lớn. Việc giao dịch này không bằng hợp đồng, mà chủ yếu dựa trên uy tín và sự quen biết nên cũng dễ gặp rủi ro.
MÃ ĐỀ TÀI 014