Luận án tiến sĩ luật học của Trịnh Đăng Thanh (2004), “Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay” [76], tác giả đã tập trung nghiên cứu sự cần thiết phải quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch trong đó có hoạt động XTDL, trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp kiến nghị điều chỉnh bằng chính sách, pháp luật để điều chỉnh hoạt động du lịch Việt Nam bao gồm XTDL Việt Nam.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Văn Đảng (2007), “Hoàn thiện hoạch định chiến lược xúc tiến điểm đến của ngành du lịch Việt Nam” [46], tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận mới về điểm đến du lịch, hoạch định chiến lược xúc tiến điểm đến du lịch; phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế bất cập và những vấn đề đặt ra trong hoạch định chiến lược XTDL trong thời gian qua; đề xuất hoàn thiện mô hình tổng quát và nội dung hoạch định chiến lược xúc tiến điểm đến; nhấn mạnh những giải pháp điều chỉnh hệ thống xúc tiến, nội dung và quá trình hoạch định chiến lược xúc tiến điểm đến, đề xuất hoàn thiện tổ chức quản lý hoạch định chiến lược xúc tiến điểm đến của du lịch Việt Nam.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Anh Tuấn (2010), “Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam” [81]. Tác giả luận án đã tập trung nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh điểm đến trong phát triển du lịch như: Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, điểm đến và năng lực cạnh tranh điểm đến. Tác giả áp dụng một số mô hình và phương pháp nghiên cứu mới để phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam; chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và áp lực đối với ngành du lịch Việt Nam cũng như nguyên nhân của hạn chế về năng lực cạnh tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam, trong đó có hạn chế về điều chỉnh pháp luật.
Các nghiên cứu XTDL ở tầm vĩ mô đã nghiên cứu mở rộng thị trường XTDL ở nước ngoài để đề ra các chiến lược thu hút khách du lịch là người nước ngoài đến Việt Nam, tiêu biểu có:
Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch (2005) với đề tài“Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm” [90]; Tổng cục Du lịch (2012) với các đề án: “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [96]; “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Nga đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [98]’; “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [99]; “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Thái Lan đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [101];“Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Malaysia đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [97]; “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Pháp đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [100]; “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Úc đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” [102].
Một số luận văn thạc sĩ kinh tế của các tác giả: Phạm Mạnh Cường (2007), “Hoạt động xúc tiến của ngành du lịch Việt Nam ở khu vực Asian” [37]; Ngô Minh Châu (2009), “Hoạt động xúc tiến Du lịch Việt Nam tại Trung Quốc”; Vi Thị Minh Tâm (2013), “Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xúc tiến của du lịch Việt Nam vào thị trường Nga” [83]; Lê Thị Vân Anh (2013), “Một số giải pháp thu hút khách du lịch Úc đến Việt Nam” [31], đã tập trung phân tích đặc điểm, tình hình, tâm lý du khách quốc tế, dự báo xu hướng du lịch và đưa ra các giải pháp điều chỉnh xúc tiến du lịch mang tính chiến lược cạnh tranh, thu hút du khách đến Việt Nam của chủ thể XTDL là Nhà nước.
Đề tài cấp Bộ (2007): “Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Việt Nam có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế” [90], của nhóm tác giả do tiến sĩ Đỗ Cẩm Thơ làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch chủ trì. Các tác giả của đề tài khai thác những hướng như phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam theo hai tiêu chí: Cấu thành sản phẩm chung của điểm đến và sản phẩm theo các loại hình du lịch. Nghiên cứu cạnh tranh và định vị sản phẩm du lịch Việt Nam trong thị trường du lịch khu vực và quốc tế. Phân tích và đánh giá hệ thống sản phẩm du lịch của các nước cạnh tranh trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Singapo, Trung Quốc, Inđonexia. Nghiên cứu điều tra từ góc độ tiêu dùng, tìm ra định vị hiện tại của sản phẩm du lịch Việt Nam.
Phân tích đặc thù và thế mạnh cho sản phẩm du lịch Việt Nam. Đề tài còn đề xuất hệ thống giải pháp điều chỉnh bằng pháp luật chủ yếu góp phần tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trên thị trường và phương hướng, giải pháp xây dựng sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cho thời hạn dài hơn.
Đề tài “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011) [104], đã đưa ra quan điểm, mục tiêu, giải pháp, chương trình hành động về phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó bao gồm nhu cầu điều chỉnh pháp luật phát triển sản phẩm du lịch, phát triển hệ thống hạ tầng và cơ sở vật chất, đào tạo phát triển nhân lực, phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu du lịch, đầu tư và chính sách phát triển, hợp tác quốc tế, quản lý nhà nước về du lịch.
Đề tài “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013) [105], đã nghiên cứu đề ra quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển, các định hướng phát triển chủ yếu và các nhóm giải pháp thực hiện quy hoạch. Thông qua đề án có thể xác định một số nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với quy hoạch về xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng tăng cường năng lực, bộ máy và cơ chế cho hoạt động xúc tiến quảng bá; tăng cường vốn ngân sách cho xúc tiến quảng bá du lịch, xây dựng hình ảnh và thương hiệu du lịch quốc gia.
Đề tài cấp Nhà nước – Dự án “Luật Du lịch sửa đổi” được Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì soạn thảo (2015), đã bao gồm các nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về du lịch trong đó bao gồm điều chỉnh hoạt động XTDL như một ngành kinh tế của Việt Nam.
Sách chuyên khảo “Luật Kinh doanh du lịch” của giáo sư Nguyễn Hữu Viện và tiến sĩ Trịnh Xuân Dũng (2001) [43], đã nghiên cứu về cơ chế pháp luật điều chỉnh các chủ thể tham gia vào quá trình du lịch trong đó có XTDL với mục tiêu đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững, việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách và luật pháp với mục tiêu phát triển du lịch bền vững, cung cấp những tư liệu về luật pháp quản lý hoạt động du lịch của khu vực và quốc tế để tham chiếu.
Sách chuyên khảo “Du lịch Việt Nam hội nhập trong ASEAN” của tiến sĩ Nguyễn Văn Lưu (2013) [65], đã tập trung nghiên cứu về du lịch Việt Nam trong ASEAN bao gồm cả XTDL; phân tích thực trạng hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam và hoạt động XTDL Việt Nam trong khuôn khổ đa phương và khuôn khổ khu vực, tiểu vùng trong ASEAN, từ đó tác giả đã đưa ra một số định hướng, giải pháp hoàn thiện cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật nhằm đẩy mạnh hội nhập và hợp tác của du lịch Việt Nam, nhất là XTDL Việt Nam trong ASEAN.
Cuốn sách “Bàn về Văn hóa du lịch” của phó giáo sư, tiến sĩ Phan Huy Xô và Võ Văn Thành (2016) [88], đã phân tích sâu thực trạng văn hóa du lịch Việt Nam, trong đó có bàn về văn hóa trong XTDL, từ đó các tác giả đưa ra một số giải pháp cho văn hóa du lịch Việt Nam bao gồm văn hóa trong XTDL, đặc biệt là các giải pháp khuyến nghị cần điều chỉnh bằng pháp luật để nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam.
Bài nghiên cứu “Pháp luật du lịch Việt Nam trong toàn cầu hóa du lịch” của tác giả Trần Thị Mai Phước (2015), đã phân tích sâu các cam kết quốc tế của Việt Nam về du lịch, chỉ ra các ưu điểm, hạn chế trong pháp luật du lịch Việt Nam, trong đó có nội dung pháp luật về XTDL, tác giả đã tập trung phân tích các hạn chế này dưới góc độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn tư duy cục bộ và thiếu tính dự báo, kỹ thuật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa khoa học và hợp lý, tiến độ ban hành văn bản hướng dẫn chậm, mất tính đồng bộ, việc áp dụng pháp luật trong du lịch, XTDL còn nhiều hạn chế và thiếu nhất quán làm ảnh hưởng đến XTDL trong bối cảnh toàn cầu hóa. Từ đó, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị điều chỉnh hoàn thiện pháp luật du lịch và XTDL hiện hành.
Ngoài ra, có nhiều bài báo, báo cáo khoa học, các đề tài nghiên cứu về hoạt động xúc tiến điểm đến ở góc độ vĩ mô, tập trung vào nghiên cứu các chiến lược thu hút khách du lịch vào Việt Nam như: Bài viết của tác giả Thái Bình (2004), “Du lịch Việt Nam qua con mắt của nhà báo nước ngoài và vấn đề quảng bá xúc tiến du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 7 [33]; Nguyễn Tuấn Anh (2008), “Xây dựng và quảng bá du lịch Việt Nam”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 36 [29]; Trịnh Xuân Dũng (2009), “Điểm đến du lịch, lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 6 [41]; Nguyễn Tuấn Anh, “Nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 8 [30]; Vụ Thị trường – Tổng cục Du lịch (2010), “Liên kết xúc tiến du lịch cho các tỉnh Bắc Trung Bộ – Thực trạng và giải pháp” [93] và Kỷ yếu Hội thảo liên kết phát triển du lịch các tỉnh Bắc miền Trung, Nghệ An (2010) [94]; Trần Nguyên Trực – Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Khonkean Thái Lan, “Kinh nghiệm xúc tiến du lịch tại Lào và Thái Lan thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao”.
Dưới góc độ này, các công trình nghiên cứu nước ngoài mà tác giả biết đến
đó là:
Công trình “Tourism in Developing Countries” của hai tác giả Martin Oppermann và Kye – Sung Chon [126], được xuất bản bởi nhà xuất bản International Thomson Business Press vào năm 1997. Nội dung cuốn sách tập trung phân tích những vấn đề sau: Sự phát triển du lịch ở các nước đã và đang phát triển, trong đó tác giả nhấn mạnh về quá trình nghiên cứu du lịch và pháp luật điều chỉnh du lịch tại các đất nước đang phát triển theo nhiều giai đoạn: 1930-1960, 1970-1985 và 1985-1993. Đồng thời, công trình này còn đề cập đến mối liên hệ giữa chính phủ và du lịch bằng pháp luật, các mô hình phân tích phát triển du lịch, các phương pháp đo lường phát triển du lịch quốc tế, sự phát triển các điểm đến du lịch.
Công trình “Managing Tourism” được giáo sư S.Medlik viết vào năm 1991, tái xuất bản năm 1995 bởi nhà xuất bản Butterworth – Heinemann Ltd, nghiên cứu tập trung vào những nội dung chính sau: “Tương lai – Phân tích – Kế hoạch” trong đó, tác giả phân tích và trả lời các câu hỏi về khả năng đóng góp của các cuộc nghiên cứu tương lai đối với chính sách về du lịch. Tác giả cho rằng: Trong du lịch, các chính sách và nhất là chính sách pháp luật phải dựa trên nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội trong phạm vi không gian và thời gian. Các bài nghiên cứu: “The international marketing of travel and tourism”
(Francois vellas, 1999) [131]; “Strategic management and buisiness policy” (Thomas L. Wheelen, J.David Hunger, 2002) [133]; “Tourism in the Age of Globalisation” của Salah Wahab và Chris Cooper, (2003) [132]; “Tourism Marketing and Management Handbook” (Stephen Witt F, 1995) [134]; các tác giả đã nghiên cứu XTDL dưới dạng điều chỉnh chiến lược maketing du lịch, quản trị kinh doanh du lịch dưới góc độ kinh tế ở tầm vĩ mô mà chưa có công trình nào nghiên cứu XTDL ở góc độ pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ du lịch một cách đầy đủ, toàn diện. Đây là khoảng trống để tác giả luận án tiếp cận nghiên cứu XTDL ở góc độ pháp luật điều chỉnh đối với thương nhân.
Tác phẩm “Advertising in Tourism and Leisure” của Nigel và Annette (1999) nhấn mạnh về tầm quan trọng của XTDL đối với sự phát triển của du lịch, theo đó bản chất của sản phẩm du lịch được đánh giá là khó nắm bắt và nhiệm vụ XTDL là khó khăn, về mặt lý thuyết, công trình này được đề cập bởi lý thuyết tiếp thị hiện đại, cuốn sách cung cấp một cách tiếp cận độc đáo bằng cách tiếp cận toàn diện, tổng hợp và tích hợp xã hội – văn hóa để XTDL, về mặt thực tiễn, các tác giả lấy kinh nghiệm của họ trong ngành du lịch, kết hợp với kiến thức học thuật của họ, để tạo ra cái nhìn sâu sắc về vai trò văn hóa của hình ảnh du lịch, qua đó tác động đến hoạt động XTDL của quốc gia. Tác giả phân tích XTDL của doanh nghiệp ở góc độ tiếp cận văn hóa và xã hội của điểm đến du lịch, mà chưa phân tích XTDL ở các góc độ tiếp cận khác như sản phẩm, chính sách, chiến lược marketing, pháp luật XTDL.
Bài nghiên cứu “Fundamentals of Hospitality E/Marketing Hardcover” của S.K.Singh (2014), đã phân tích cụ thể về những nguyên tắc cơ bản của XTDL, bao gồm tuyên truyền, quảng bá điểm đến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội về XTDL, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Công trình đi sâu vào phân tích những nguyên nhân và các yếu tố tác động đến phát triển du lịch, phân tích các nguyên nhân làm thỏa mãn nhu cầu khách du lịch, mà không đề cập các nguyên nhân đến từ chính sách của các cấp quản lý. Đây là khoảng trống để tác giả nghiên cứu về XTDL của thương nhân tiếp cận ở cả góc độ chính sách quản lý.
mã đề tài 022